Một thuyền nhân tử tế

Viết về nhân vật này lại hình dung ra bạn Đàm Hà Phú nhà mình 🙂


“Tại sao anh phải về Galang trước một tuần để sửa miếu Ba Cô?” – “Trong chuyến đi năm ngoái, nhìn thấy ba cái miếu đó cũ kỹ, điêu tàn, thấy tội nghiệp quá nên có hứa là sẽ về sửa sang lại. Vì hứa nên lần này phải về làm thôi.”

Câu chuyện giữa tôi và Nguyễn Tuấn Hùng bắt đầu như thế.
Nguyễn Tuấn Hùng là một người khá đặc biệt trong số những thuyền nhân tham gia hành trình “Về Bến Tự Do” vừa qua do Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tổ chức.
Tôi biết Hùng vào tối ngày thứ hai của chuyến đi, ngay tại đảo Tanjung Pinang ở Indonesia. “Đó là một người rất tử tế,” là lời giới thiệu của một nhà báo kỳ cựu về Nguyễn Tuấn Hùng. Riêng tôi, ấn tượng đầu tiên về Hùng là một nét gì đó nhuốm vẻ phong trần, giang hồ, ngoại trừ nụ cười và giọng nói hiền lành.
Đi vượt biên năm 1984 cùng cậu và một người em họ, Hùng được đưa từ đảo Kuku qua Galang. “Ở Galang 3 năm, tôi được sang Thụy Điển theo sự bảo lãnh của một người dì. Năm đó, tôi 14 tuổi.” Hùng kể.

“Ngay từ lúc bước chân xuống tàu đi định cư ở Thụy Điển, tôi đã mơ ước có ngày sẽ trở về thăm trại tị nạn, thăm đảo Galang,” Hùng tâm sự.
“Không hiểu sao trong nhiều năm liền, giấc mơ được trở về Galang cứ hiện lên hoài trong giấc ngủ của tôi. Cho đến một lần, tình cờ vào trang mạng VNBP, thấy link ‘Bidong-Galang,’ tôi mừng quá, gọi điện cho chú Trần Đông bên Văn Khố Thuyền Nhân để đăng ký chỗ đi ngay.” Hùng vui vẻ kể về cơ duyên đưa mình đến với các chuyến “Về Bến Tự Do.”
Có điều, lần đó chuyến đi đã hết chỗ, nên Hùng phải chờ đến lần sau, năm 2007.
Từ đó đến nay, Hùng đã có tổng cộng bốn chuyến theo chân những thuyền nhân xưa về thăm lại nơi ghi dấu một thời không thể nào quên của những người vượt biển.
“Người ta thường chỉ đi một lần, sao anh đi những bốn lần?” tôi hỏi.
“Thứ nhất có lẽ do bản tính tôi từ nhỏ đã thích đi đây đi đó, cứ vác ba lô đi miết. Kế nữa là trở về đảo Galang là mơ ước của tôi. Tôi cứ mơ và nhớ hoài về những ngày ở trại tị nạn,” Hùng trả lời.
“Anh nhớ gì và mơ gì về trại tị nạn?”
“Mơ và nhớ nhiều lắm. Nhớ những lúc đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử ở đảo có rất đông bạn bè. Nhớ lúc vô rừng bắt cá. Ở đó tôi có nhiều kỷ niệm hay lắm.” Hùng hồi tưởng.
Chính vì có quá nhiều kỷ niệm trong những năm tháng khó khăn thiếu thốn nhưng lại “rất hay” cho một người luôn khao khát được đi và tìm đến những nơi như thế nên mỗi lần về Galang là mỗi lần Hùng cảm thấy “khác lắm và vui lắm.”

Điều đặc biệt, Hùng trở về thăm trại tị nạn xưa, không phải trong thân phận của một “kẻ khách” mà như một đứa con trở về mái nhà tuổi thơ. Hùng hòa vào cuộc sống của người địa phương, của những người bạn đồng lứa, lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Hùng ngồi cùng họ, ăn cùng họ, uống cùng họ, ngủ cùng họ, như những người thân. Và đương nhiên, những người địa phương cũng xem Hùng như một người thân thiết.
Một lần, cả đoàn được mời tham dự một đêm lễ hội dân gian của người địa phương, Hùng vẫn giữ vai trò là người quay phim làm tư liệu cho Văn Khố Thuyền Nhân. Đang mê mải quay phim, bất ngờ, người dẫn chương trình hát một câu đối đáp gì đó bằng tiếng Indo, rồi dừng lại gọi Hùng hát tiếp. Thế là Hùng hát, bằng tiếng Indo. Cứ thế, Hùng và anh chàng người địa phương đó hát hết bài. Dân làng đứng xung quanh vỗ tay rần trời. Cả đoàn thuyền nhân cũng “mừng rơn,” ít ra người bản xứ nói được tiếng Việt thì trong đoàn cũng có được một người hát được tiếng Indo!
Lần đầu tiên khi tàu chở cả đoàn người đến đảo Kuku, tàu chưa cặp bến, Hùng đã nhảy tùm xuống biển, bơi lặn trong dòng nước đó, rồi kê đầu gối mình làm điểm tựa cho những phụ nữ, những người lớn tuổi trên tàu bước lên, để dễ dàng nhảy lên bờ. Ai nhác, không dám nhảy xuống, Hùng sẵn sàng cõng hoặc ẵm luôn vào bờ! Tôi nhìn cách Hùng đối xử với mọi người mà “kinh ngạc.”

Những lần vượt suối, qua cầu khỉ, vào rừng sâu, như những người địa phương nhuần nhuyễn đường đi, bao giờ Hùng cũng đi trước, để giúp những người qua sau, thậm chí cứ ngâm mình dưới suối để nắm tay từng người bước qua cầu khỉ cho họ khỏi té.
Hùng làm tất cả mọi chuyện, cho người bản xứ, cũng như với các thành viên trong đoàn, bằng một tình cảm và sự quan tâm chân thành, không màu mè, khách sáo. Có một cặp vợ chồng tham gia hành trình “Về Bến Tự Do” từ bên Úc. Họ không quản công mang theo hơn một vali lớn quần áo còn khá mới cho trẻ em. Mang theo thì được, nhưng cho ai và cho như thế nào, thì Hùng là người lãnh trách nhiệm, “Để đó con lo cho.”

Bằng kinh nghiệm của mình, Hùng biết được nơi nào người dân nghèo, nhưng tặng đồ “second hand” là họ sẽ giận, cho rằng mình không tôn trọng họ; Hùng biết nơi nào mang đồ đến cho họ sẽ mừng. Thế là Hùng “tha” theo đống quần áo đó đến tận Keramut, một ngôi làng thật nghèo trên đảo. Đám con nít chạy theo Hùng. Hùng lôi ra từng cái quần cái áo ướm thử xem đứa bé nào vừa thì cho nó, và cố gắng sao cho bé nào cũng có.

Tôi nhìn cách Hùng làm và tự hỏi, “Mình có chịu khó được đến vậy không?”
Quay trở lại chuyện sửa sang miếu Ba Cô ở đảo Galang. Như lý do Hùng đã nói, “Chuyến trước về có hứa sẽ quay lại sửa sang ba cái miếu của ba cô, bởi thấy nó điêu tàn, cũ kỹ, tội nghiệp lắm, nên lòng cứ muốn phải sửa sang lại, phải làm một cái gì đó.”
Hùng hứa trước miếu như vậy, nhưng chuyến đi năm ngoái thời gian không đủ cho Hùng hoàn tất công việc, nên lần đi này, Hùng đã bay sang Singapore trước đoàn một tuần, rồi đón tàu về đảo Galang một mình để sửa sang miếu trước khi mọi người đến.

Hùng kể Hùng làm công việc trùng tu miếu Ba Cô chung với một người bạn người Indo, tên là Abu. Từ nhỏ, Abu đã ở trong trại tị nạn Galang, chơi với con nít Việt Nam nên Abu có thể nói tiếng Việt rất giỏi. Hiện giờ, Abu đang làm “bảo vệ” cho Galang. Và Abu chính là người đã thấy “ba con gái tòn ten trên cây” trong khi sửa sang lại miếu hồi năm ngoái, theo lời nhờ cậy của Hùng.

Có người nói, “Vì Abu làm mà không ‘xin phép’ ba cô trước nên ba cô giận ra nhác Abu.” Có người lại nói, “vì thấy Abu sửa nhà cho ba cô nên ba cô ra chào Abu đó thôi.” Ai nói sao cũng được, chỉ biết là sau lần đó, Abu không dám làm nữa mà phải chờ chuyến này Hùng trở về để hai người cùng làm, và phải kêu thêm một người bạn của Abu nữa đến làm chung, “cho đỡ sợ.”
Khi đoàn chúng tôi đến, ba ngôi miếu nhỏ nằm dưới gốc cây da to vừa được sửa sang, sơn phết lại rất mới. Theo lời Hùng thì cũng chỉ mới hoàn tất 90% công việc theo ý Hùng thôi, “nhưng tôi thấy vui lắm vì nhìn các ngôi miếu đã hoàn toàn sạch sẽ.”
“Có một ngôi miếu bị nước ngập nên phải lên nền xi măng,” Hùng nói thêm.
Trong thời gian ở Galang trùng tu lại miếu Ba Cô, Hùng ở trong nhà của Abu. “Nhà Abu rất nghèo. Sáng sống với ruồi, ruồi nhiều quá! Lên miếu Ba Cô làm mà ruồi bu đầy hết. Tối thì ngủ với muỗi, muỗi quá chừng muỗi! Tối đi ‘toilet’ trong rừng, mỗi lần đi sợ lắm, phải có Abu đi theo. Rồi không có nước, ngày đầu tắm nước ở mấy cái cống trong rừng. Mấy ngày sau thì tắm ở giếng tập thể. Nhưng nhà Abu rất tốt. Mẹ Abu nấu cơm cho ăn, sáng ra miếu làm, trưa về có cơm ăn, ăn xong ra làm tiếp, tối về lại có ăn.” Hùng kể lại chuyện ở nhà Abu, một người dân địa phương rất có lòng với người Việt tị nạn, bằng một giọng hóm hỉnh.
Tôi hỏi công việc chính của Hùng bây giờ là gì. Hùng cười, “Nói công việc chính là gì tôi cũng không biết nữa. Bao năm nay cứ vác ba lô đi miết. Cứ đi làm rồi để dành được ít tiền, lại đi. Lần này đi lâu vì có bằng cho người ta thuê mở nhà hàng rượu nên được trả tiền lương, nên cứ đi khắp nơi.”
Hùng khoe, “Đi đến đâu tôi cũng không sợ không có chỗ ăn chỗ ngủ, không sợ đói. Ở đâu tôi cũng có bạn hết.”.
Một người như Nguyễn Tuấn Hùng, đương nhiên, ai cũng muốn kết bạn rồi.
Và, nếu như thuyền nhân nào cũng có chút tình như Hùng đối với chốn tạm dung xưa thì có lẽ những người nằm xuống nơi rừng sâu trong các trại tị nạn năm nào sẽ cảm thấy ấm lòng hơn.