Đảo Kuku

PULAU KUKU (NV).- “Tôi từng nghĩ trong cuộc đời mình phải có một lần trở lại chốn này để tìm lại những kỷ niệm, dù chốn cũ đã thay đổi nhiều. Một lần thôi, tìm lại nơi có những kỷ niệm rất ý nghĩa trong cuộc đời mình. Hôm nay tôi đã thực hiện được ước mơ đó.” Anh Quế Chi, người đã trải qua những ngày sống tại đảo Kuku từ 27 năm trước, đã cố gắng thật nhiều để kiềm chế cơn xúc động của mình khi nói lên điều đó.
Ngày thứ tư của hành trình “Về Bến Tự Do” là một ngày thật vui, thật mệt, và cũng thật nhiều nước mắt và cảm xúc.

Đảo Kuku, hồi ức và kỷ niệm

Sau khi ghé thị trấn Letung để đón nhận sự chào mừng nồng nhiệt của viên chức địa phương và cư dân trên đảo, con tàu tốc hành tiếp tục đưa chúng tôi đến đảo Kuku.
Chú Lưu Dân, người của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, cho rằng, “Đảo Kuku thuộc quần đảo Jemaja. Thực ra đó không phải là đảo mà là bãi biển.”
Có thể về mặt địa lý, gọi “đảo Kuku” là không chính xác, nhưng cái tên “đảo Kuku” tự lúc nào đã trở nên gắn bó và thân quen với bao lứa người tị nạn từng trải qua những ngày không thể nào quên trên đó. Theo tiếng Indonesia, Kuku có nghĩa là “cậu.” Tên đó được người dân địa phương đặt cho một người Hoa đầu tiên đã đến khai phá khu rừng trên biển Kuku cũng như hướng dẫn người bản xứ cách khai khẩn đất hoang.

Lúc tàu gần cặp bờ, những người từng là thuyền nhân trên Kuku bắt đầu xôn xao, “Kìa, Kuku đằng trước kìa.”
Tàu dừng lại, trước mắt mọi người là một khu rừng sát biển, mênh mông lau sậy. Ngút ngàn cỏ và cây.
Sau khi lần lượt từng người phóng từ mũi tàu xuống bờ, nhìn vẻ mặt rất hứng chí của chị Nguyệt Hương, hiện đang ở Canada, tôi hỏi, “Ngày xưa chị ở đây, giờ trở về chị thấy lạ không?”
Chị Hương cười rất tươi, “Tôi đang đi tìm lăng bác.”
Tiếng ai đó nói dồn, “Có hai cái lăng hai bên, đẹp lắm! Hình như là chỗ những mỏm đá đằng kia kìa.”
“Lăng bác là cái gì? Tại sao gọi là lăng bác?” Tôi tò mò
Chị Hương lại cười, “Lăng bác là nơi đi ‘giải bầu tâm sự.”
Ra là vậy. “Lăng bác” là nơi có nhiều hòn đá chất chồng tự nhiên nên không bị ảnh hưởng khi chính quyền địa phương hỏa thiêu toàn khu đảo sau khi đóng cửa trại tị nạn như một kiểu tổng vệ sinh. Vì thế, một số người trong đoàn lấy đó làm nơi định vị để xác định những dấu tích xưa.
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nhờ tôi chụp dùm chú tấm hình ngay tại mé biển, nơi mà “26 năm trước tôi tắm ở đây.”
“Không nhận ra gì quen, ngoại trừ biển. Chỗ kia ngày xưa là văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc.” Vừa đốt thuốc liên tục, chú Thái vừa nói nhỏ.
Anh Vinh, ở Arizona, bồi hồi, “Kuku là chỗ tôi ở dài nhất. Cảnh khác rất nhiều. Những cái cây to này lúc đó không có. Tôi nghĩ đây là cầu tàu, kia là đường đi ra cầu tàu.”
Tôi nhìn theo những nơi anh Vinh chỉ để hình dung ngày xưa trại tị nạn là như thế nào.
Đứng tại nơi đang bị bao phủ không gì khác hơn là cỏ dại, chú Hanh – một thuyền nhân từng là đại úy pháo binh năm nào, hồi tưởng, “Tôi nhớ hồi đó tôi ngủ chỗ này.” Chú quay sang nói với chú Đức, em trai mình, “Hai anh em mình đi lấy củi trên kia.”
Trong khi đó, chú Đức, người có vẻ phong trần của một dân cư miền biển, lại “nhớ chỗ mấy anh em ngồi nấu cháo, tán dóc.”
“Trở về đây rất xúc động, nhưng vật đổi sao dời nên chẳng còn mấy vết tích. Nhưng tôi nhận ra gốc cây này,” chú Đức nói với tôi ngay tại cây cổ thụ, nơi con tàu vừa đổ neo.
Mỗi người nhớ một chút. Người đến trước không nhớ có gốc cây to, người đến sau lại xem đó là nơi kỷ niệm. Chỗ này là các barrack, chỗ kia là bệnh xá, xa xa bãi đá là ‘lăng bác.’
Anh Vinh, được xem là người đến đảo Kuku sớm nhất so với những người khác trong đoàn, mô tả với cả đoàn quang cảnh Kuku thời đầu.
“Tàu tôi đến Kuku ngày 30 hay 31 tháng 6 năm 79. Lúc đó thấy rất vắng người, và không hiểu vì sao tàu lại bị đưa sang đảo khác, rồi một tuần sau mới quay lại Kuku. Chỉ cách nhau một tuần nhưng người đã đầy bãi. Không còn chỗ trống buộc lòng chúng tôi phải mua lại chỗ mà những người đến trước đã cắm cọc. Lúc đó cũng chưa có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ở đây. Khoảng 1, 2 tháng sau họ mới xuất hiện. Rồi những người dân địa phương cũng xuất hiện mua bán đổi chác với người tị nạn. Và chỉ chừng hơn 3 tháng sau, đứng từ trên nhìn xuống, nơi này trông như một thành phố, cũng có quán cà phê, hàng quán chè cháo. Nói chung là mình muốn ăn cái gì cũng đều có bán. Tuy vậy cuộc sống chung của người tị nạn rất đau thương. Nhiều người đã chết vì dịch tả, vì sốt rét cấp tính.”
“Không tính những người chết trên biển, riêng hòn đảo Kuku này có khoảng 2,000 người đã chết và được mai táng. Tuy vậy chỉ mới có 20 ngôi mộ được Văn Khố Thuyền Nhân tìm thấy.” Chú Trần Đông, giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân, cũng là trưởng đoàn, cho biết thêm chi tiết trước khi đoàn người bắt đầu lên “bãi trực thăng” viếng Nghĩa Trang Thuyền Nhân

Nén nhang và lời cầu nguyện cho người nằm lại

Sau khi ‘nhận diện’ nơi mình từng sống qua những gì còn sót lại, cả đoàn 22 người, theo sự hướng dẫn của những tour guy địa phương, bắt đầu tiến sâu vào rừng.
Qua một chặng dài đường bằng phẳng chỉ chen chúc cỏ dại cỏ lát, đôi chỗ che lút đầu người, càng vào sâu con đường càng lên dốc và khó đi.
Những người khỏe đi trước, chìa tay kéo những người lớn, những phụ nữ theo sau. Ngoại trừ người địa phương, chú Trần Đông, chú Lưu Dân thuộc Văn Khố Thuyền Nhân, và anh Hùng, anh Huy, hai người đã tham gia hành trình “Về Bến Tự Do” đến 4 lần, các thành viên còn lại trong đoàn, kể cả những thuyền nhân từng sống ở Kuku, cũng chưa bao giờ đặt chân đến “Nghĩa Trang Thuyền Nhân” này.
Tôi cứ phải dừng lại thật lâu xem mình có thể thay từ gì khác cho hai chữ “nghĩa trang” nơi đây không.
Thật lâu và thật lâu
Tôi không chọn được.

Cứ hãy gọi nơi đó là nghĩa trang. Một nghĩa trang đau thương và tàn nhẫn.
Những cái được gọi là “mộ” chỉ lác đác chưa đầy một bàn tay. Còn lại đa phần chỉ “có vẻ là một ngôi mộ” của ngày xưa.
Một miếng đá to to. Một mảnh đá đã bể. Những hòn đá nhỏ đắp quanh quanh. Tất cả đều là dấu tích cho biết có thể ai đó đã nằm yên dưới khoảng đất này.
Bó nhang được thắp lên và chia cho những người có mặt. Không ai cần lên tiếng hỏi “phải cắm ở đâu.”
Cứ đi và cắm xuống.
Một hòn đó chỏng chơ nơi đây, một nhóm đá nhỏ đắp nhô lên, cũng có thể từng là nơi yên nghỉ của một người đã không thể đi trọn hành trình đến bờ tự do.
Tất cả những người trong đoàn đều không có thân nhân nằm lại nơi đây. Nhưng nét đau thương vẫn cứ hiện trên gương mặt mỗi người.
Tôi bước đi, nhìn những hòn đá, chụp những tấm hình, qua ống kính mờ nước. Tôi tự hỏi, mình có đang vô tình giẫm lên ai đó đang nằm bên dưới kia không?
Đằng này một tiếng nói khẽ, “Cô này chết lúc mới 16 tuổi.”
Đằng kia giọng ai thì thầm, “Có để tên người chết đó nhưng mình không đọc được.”
Những tiếng sụt sùi. Những gương mặt cúi gằm che đậy cảm xúc.
Anh Quế Chi, người có vẻ rất vui trong những ngày qua, và luôn tươi cười khi nhìn ra những cảnh cũ, vậy mà, nơi nghĩa trang này, anh đã khóc.
“Tôi sống ở đây, nhưng giờ trở lại tôi mới biết có khu nghĩa trang này.” Anh Chi cố kiềm nén nỗi xúc động của mình, môi cắn chặt, tay nắm chặt, đứt quãng từng câu nói.

Lặng lẽ một góc khác, chị Nguyệt Hương, vợ anh, cũng đưa tay lau nước mắt.
Chú Đinh Quang Anh Thái chọn cho mình một góc nhìn ra mênh mông rừng và biển. Những điếu thuốc lại cứ liên tục được đốt. Lặng lẽ.
Đoàn người cúi đầu, cầu nguyện theo cách riêng của mình, cho linh hồn người đã khuất.
Theo lời đề nghị của vợ chồng anh Quế Chi, cả đoàn xúm lại, mỗi người một tay nhổ cỏ và nhặt nhạnh rác rưởi quanh khu nghĩa trang này, như một kiểu tảo mộ, “để nhìn cho ấm áp hơn khi có bàn tay chăm sóc.”
Giã từ “Nghĩa Trang Thuyền Nhân” nơi bãi trực thăng, cả đoàn vào rừng sâu hơn nữa để thăm những thuyền nhân xấu số khác. Đoạn đường càng lúc càng khó hơn. Nhiều dây leo cuốn lối và nhiều chỗ trơn trợt hơn.
Đến ngang một con suối, muốn đi tiếp buộc phải bước qua cầu khỉ. Phân nửa người bỏ cuộc. Gửi chiếc ba lô cho người ngồi lại, cùng chiếc máy ảnh trong tay, tôi theo chân những người đi trước.
Nơi đây, trong thăm thẳm rừng sâu này, tôi đâu ngờ có lúc mình lại là người chụp hình những mộ bia mà dạo cuối năm ngoái trong một phóng sự viết về một người đi tìm mộ, tôi có nhắc đến tên họ. Đó là mộ của Nhan Thị Mộng Hà, Vũ Tấn Trung, Quách Thị Mai,… Những run rủi của cuộc đời, ai làm sao nói trước.
Vào sâu thêm nữa lại bắt gặp những dấu tích của một “nghĩa trang” hiu quạnh đến não nề. Trong ẩm thấp rừng sâu, mấy mươi năm rồi, có được bao bàn chân lần về chốn này để thắp cho người nằm lại một nén nhang?
Tôi không biết đọc tiếng Hoa trên những mảnh bia còn sót lại qua những tàn phá của thời gian. Tôi không đọc được tên ai đã từng được khắc ghi trên phiến đá này trong ngày nằm xuống mà giờ đây dấu tích đã phai nhòa.
Tôi nhìn những người chung quanh. Anh Vinh, anh Chi, chị Hương, anh Huy, anh Hùng, chú Chính, chú Thái, cô Hương,… những người đã đến bến bờ và đã trở về. Tâm trạng họ hằn in trên gương mặt họ. Thương cảm. Xót xa.
Tôi ngồi xuống một cành cây ngã trong rừng. Thẫn thờ.
Anh Huy ở Georgia, người đã 4 lần tham gia chuyến đi “Về Bến Tự Do,” cũng ướt đầm mồ hôi, nhìn tôi nói, “Ai bảo rằng đi đây là sướng? Chị nhìn đi, cực lắm chứ. Đâu phải là cưỡi ngựa xem hoa. Mỗi lần trở lại tôi không mong mình sẽ tìm thấy những điều gì mới lạ, mà mỗi lần quay về tôi lại thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn. Những giá trị tinh thần mang ý nghĩa tâm linh nhiều khi không nói hết.”
Tôi không đáp lại lời anh. Trong mênh mông quạnh quẽ của khu rừng, bỗng vang lên một âm thanh gì đó thật lạ. Có ai đó bảo, hình như hè đang đến, phải chăng là tiếng ve? Tôi lại không nghĩ như vậy.

Cả đoàn quay trở ra. Tôi ngồi cùng nhà báo Đinh Quang Anh Thái ngay trước bãi biển Kuku, nơi các thuyền nhân xưa dừng chân lên đảo.
“Trở về đây, tôi cảm thấy cuộc đời mình đã mãn nguyện. Tôi thực không ngờ có ngày tôi trở về đây.” Và chú lại lang thang, một mình, tìm một góc khuất, đắm chìm trong những ký ức ngày xưa.
Trước bao la của đất trời, trước vô tận của biển cả, tôi nhìn ra biển. Bao con thuyền đã từng đến đây? Bao xác người đã tấp vào đây?
Quay nhìn lại vùng đất từng một thời là chốn tạm dung của mấy mươi ngàn đồng bào tôi. Tôi không biết rõ mình đang nghĩ gì, muốn gì. Dâu bể của cuộc đời. Dâu bể của dân tộc tôi. Bao giờ chấm dứt?
Buổi tối, những thuyền nhân ngồi lại cùng nhau trước hàng hiên của một ngôi nhà trên xóm đảo Letung. Trong tiếng đàn guitar của chú Chính, một thuyền nhân ở Phillipin, hiện đang ở Úc, giọng hát thật lạ của chị Nguyệt Hương, vừa như da diết, vừa như não nề ai oán trong bài hát “Làng tôi” nghe sao chất ngất những tái tê.
“Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam…”
Đêm Letung, những đứa con Việt nhìn về quê hương “chìm chân trời mờ sương” lòng tự hỏi ai gây nên nỗi bi ai này?