Đảo Terempa: “Một vòng xoay kỳ lạ”

INDONESIA (NV).- Ngày thứ ba của hành trình “Về Bến Tự Do” là ngày chúng tôi di chuyển bằng nhiều phương tiện nhất: xe, máy bay, tàu tốc hành và đi bộ. Con đường càng gần đến các đảo xưa in dấu chân người tị nạn, càng thôi thúc lòng người miên man nhiều tâm trạng, nhiều cảm xúc và nhiều câu chuyện thú vị bất ngờ không hề có trong dự tính cũng diễn ra.

Tấm lòng thuyền nhân

Trong bữa ăn sáng trước khi rời khách sạn đẹp nhất mà đoàn người được ở trong suốt chuyến đi, các thuyền nhân Letung, Kuku, Galang xưa lại chia sẻ những nỗi niềm mà mình đã ôm ấp suốt bao năm qua.
“Thực tình tôi mong chờ chuyến đi này nhiều năm lắm rồi đó,” anh Vinh ở Arizona, một người Việt gốc Hoa, nói thêm lần nữa sự nôn nao của mình.
Anh Vinh muốn trở về, không chỉ tìm lại những kỷ niệm xưa, mà muốn làm một điều gì đó thật cụ thể, như một sự đền ơn đáp nghĩa với mảnh đất đã cưu mang mình.
Cô Phi, người phụ nữ nhỏ nhắn, dịu dàng, tâm sự, “Tôi cũng vậy. Chờ đợi biết bao lâu rồi. Tôi rất mừng khi nghe là trong chuyến này mình sẽ ghé thăm trường học ở Galang. Phải làm điều gì đó để người dân bản xứ đừng nghĩ chúng mình là kẻ bội bạc.”
Vợ chồng anh Chi, chị Hương, vợ chồng chú Duật, cô Hương, chú Đức, đều cùng chung suy nghĩ.
Có lẽ cũng chính vì điều đó, nên khi nghe chú Trần Đông, trưởng đoàn, nói ý định lần này về thăm Galang sẽ mua tặng cho trường học nơi đó hai máy phát điện, cả đoàn đều nhiệt tình hưởng ứng.
Chú Đức, một bác sĩ biệt động quân năm xưa, hiện đang ở Florida, góp $500, vợ chồng anh Quế Chi, chị Nguyệt Hương ở Canada đã gửi trước $500 cho trưởng đoàn từ khi mới đến. Còn lại các thành viên trong nhóm, người một trăm, hai trăm, cùng chung tay làm một điều gì đó thật cụ thể để “người dân nơi đây đừng nghĩ chúng ta là kẻ bội bạc.”

Phi trường Matak

11 giờ, chúng tôi, ngoài nhóm 10 người gặp nhau từ ngày đầu tiên ở Singapore, giờ đây còn có thêm 12 thành viên đến từ Malaysia, chuẩn bị hành lý ra sân bay đến đảo Matak. Các thành viên mới phần lớn là thuyền nhân xưa từng ở Bidong bên Malaysia. Họ đã tham gia chuyến “Về Bến Tự Do” trước “nhóm Galang,” và muốn tiếp tục đến những trại tị nạn ở Indonesia “cho biết.”
Buổi sáng trên đảo Tanjung Pinang cũng một màu xám xịt, và cũng những cơn mưa xối xả. Đứng trước khách sạn, từ trên cao, nhìn sang bên đường, một chiếc xe có tủ kiếng như kiểu những xe bán bánh mì, cạnh bên là những người chạy xe ôm che áo mưa chờ khách. Cạnh bên nữa là một quán nước lợp tôn dưới một tàn cây lớn. Những chiếc ghế nhựa. Chiếc tủ nhỏ bày thuốc lá. Những chiếc xe Honda, gắn máy cứ vùn vụt lướt qua. Lại cảm thấy giống quá và nhớ quá, Việt Nam.
Đến giờ, vượt qua cơn mưa, chiếc xe van nhỏ đưa chúng tôi đến sân bay Riau.
Sân bay Riau có lẽ giống sân bay Buôn Ma Thuộc, mỗi ngày chỉ một chuyến đi và một chuyến đến với chừng trăm hành khách. Máy bay cánh quạt, bé xíu và phải mất một khoảng thời gian khá lâu để chờ máy lạnh làm mát không gian.
Sau hơn một giờ bay, chúng tôi đáp xuống sân bay Matak. Đây là một sân bay thuộc quyền sở hữu của công ty khai thác dầu hỏa Monoco Phillips do Hoa Kỳ làm chủ. Công ty này cho mượn sân bay Matak để hãng hàng không Indonesia chở khách từ các đảo khác sang đây.
Cái nóng bức bắt đầu được cảm nhận.
Chưa kịp lên tiếng thở than đã nghe lao xao. Thì ra một phái đoàn do ông trưởng phòng du lịch, một cơ quan thuộc chính quyền địa phương trên đảo, dẫn đầu cùng một số chàng trai và cô gái trong trang phục dân tộc, xinh đẹp như những công chúa và hoàng tử trong các câu chuyện cổ Ba Tư, ra tận sân bay trao vòng hoa và tặng quà cho chúng tôi.
Bất ngờ thú vị, cả đoàn đua nhau chụp hình với các “công chúa” (sao không đòi chụp hình với “hoàng tử” nhỉ?) bởi không dễ gì có dịp xem người ta mặc trang phục dân tộc như thế.
Trên chặng đường từ sân bay ra bến tàu để đến đảo Terempa, anh Vinh, người ít nói nhất nhưng dường như nhiều tâm trạng nhất, tiết lộ, “Thật lạ lùng là năm 1979, khi tôi đặt chân đến đảo này, tôi cũng gặp một đám cưới, họ cũng mặc trang phục truyền thống như vậy. Ai ngờ, sau 31 năm, lần đầu tiên trở về đây, tôi lại cũng thấy những bộ trang phục này.”
Anh nói với người ngồi bên cạnh, “Đúng là càng đi, tôi càng không biết phải diễn tả cảm xúc của mình như thế nào nữa. Kỳ lạ quá!” Anh dùng máy quay phim thu nhận hết những cảnh vật diễn ra trước mắt.
Đường từ sân bay ra bến tàu, rất nhỏ và rất xấu. Ngoằn ngoèo, lượn dốc. Người dân nơi đây toát lên vẻ lam lũ, vất vả đến đáng thương.
Đứng trên bến tàu, nhìn những ngôi nhà che chắn bằng tôn, chen lẫn vài ngôi nhà đắp đất, xi-măng, đây đó, hành khách người nhẹ nhàng, người khệ nệ hành trang, bước xuống tàu, lại nghe lòng có gì thật lạ.
Cũng tàu, cũng bến, cũng biển, cũng bờ nhưng khác nhau nhiều lắm trong lần ra đi mấy mươi năm về trước và trong chuyến quay ngược hành trình này.

Con tàu đến Terempa

Vừa chui vào bên trong một chiếc tàu tốc hành với chừng ba mươi hành khách, nóng bức và khát cháy, chưa kịp nghĩ xem liệu mình có bị say sóng hay không, thì chú Trần Đông, trưởng đoàn, gọi tôi qua chiếc tàu nhỏ khác. Tôi ngồi ngay phía trước, sau lưng tài công, nơi có thể quan sát được rõ ràng cảnh vật trước mắt.
Ngồi bên này tàu, nhìn sang chiếc tàu lớn khi nãy, tôi trông thấy nhà báo Đinh Quang Anh Thái ngồi lẫn với đống hành lý trên boong tàu. Dường như chú đang mang một tâm trạng gì đó, khang khác.
Tàu khởi hành.
Lao vùn vụt.
Lại cũng cảm giác như nó phóng lên cao, rồi rơi xuống chạm đáy, lại bị tung lên.
Ngồi ngay phía ngoài, không sợ mình bị bay xuống nước, chỉ lo ống kính máy chụp hình va vào thành tàu khi con tàu lượn cua, hay có mưa bất chợt làm ước máy ảnh thì không biết làm sao trong những ngày sắp tới. Cuối cùng, máy ảnh an toàn, ống kính an toàn, nhưng mắt tôi có lẽ sẽ không an toàn bởi cặp kiếng đã bay vèo xuống biển.
Chú Trần Đông, người vượt biên suốt 10 năm ròng rã với không biết bao nhiêu chuyến trước khi đến bến tự do, nói, “Hôm nay thời tiết tốt do trời mát, nhiều mây nên mình không bị khốc. Biển hơi sóng thôi.”
“Hồi đó đi vượt biên cũng đi như vầy hả chú?” tôi hỏi.
“Đâu có. Mình đang đi bằng tàu tốc hành. Hồi đi vượt biên, một chiếc tàu 9, 10 thước có cả mấy chục người, chạy bằng máy dầu, còn tàu cao tốc chạy bằng máy xăng. Nếu may mắn, biển êm thì không có gì. Còn biển sóng quá, tàu bị hư bị chết máy thì phải lênh đênh trên biển.”
Có lẽ thấy chưa đủ với một kẻ chưa từng vượt biên như tôi, chú Đông, người khởi xướng Hội Văn Khố Thuyền Nhân, nói tiếp, “Đối với hầu hết người đi vượt biên thì họ không có kinh nghiệm về biển, cứ đến ngày đi thì họ cứ lên tàu mà đi thôi. Khi ra ngoài khơi thì sóng gió, bão bùng, tàu hư máy chết máy thì cứ phó mặc cho số phận thôi.”
Tôi nhìn sang chiếc tàu chở chú Thái phía xa xa. Giữa biển mênh mông đen kịt, trông chiếc tàu nhỏ nhoi quá. Ngày xưa, bao chiếc tàu thô sơ hơn thế đã liều mình ra đi?
Sóng nhồi.
Con tàu nhồi.
Và tôi cũng thấy mình trồi lên sụp xuống theo con sóng.
Không biết do gió cứ phần phật thổi. Không biết do câu chuyện của thuyền nhân Trần Đông năm nào cứ cuốn hút tôi. Hay có lẽ do tôi cứ muốn hình dung những con tàu năm xưa bể máy, cạn dầu, bị cướp, bị đói đã bồng bềnh, trôi dạt giữa đại dương ra sao mà tôi không có cảm giác buồn nôn, say sóng.
Sau hơn 30 phút phơi mình cùng nắng gió trên con tàu cao tốc, tôi được làm kẻ đầu tiên bước lên bờ của đảo Terempa, nơi có một phái đoàn khác đang chào đón.
Một ông đại diện viên chức địa phương bắt tay tôi và nói một tràng gì đó chỉ mình ổng hiểu. Tôi cũng đáp lại một tràng mà tôi và ổng cùng không hiểu. Chỉ biết ổng cười, và tôi cười, những nụ cười thân thiện.
Sau thủ tục chào đón mà theo lời chú Đông là “những lần trước không có,” cả đoàn đi bộ theo con phố nhỏ vào xóm đảo.

Terempa, “một vòng xoay lạ lùng”

Đi chừng trăm thước, chú Thái bỗng quay sang nói với tôi, “Ngày 22 tháng 4 năm 84 tôi rời Việt Nam. Ngày 5 tháng 5 năm 84, đúng 5 giờ rưỡi chiều, tàu tôi vào đây, đúng đảo này, Terempa. Một vòng xoay lạ lùng. I don’t know.”
Ngay khi đó, tôi hiểu ngay sự khang khác mà trước đó tôi bắt gặp nơi nhà báo dạn dày kinh nghiệm này.
“Vậy đây là lần đầu tiên chú về đây phải không?”
Chú Thái gật đầu.
“I don’t know.” Chú trả lời như vậy khi tôi hỏi cảm xúc của chú. “I don’t know.” Chú nhắc lại, thật nhỏ, trong những cái lắc đầu nhẹ, và mắt nhìn xa xăm.
Im lặng. Tôi để chú chìm trong những xúc động của riêng mình.
Một thoáng, bất chợt, tôi nhìn thấy trên gương mặt đen sạm vì nắng vì gió, vì dấu ấn thời gian của người đàn ông trải qua không biết bao gian nan của cuộc đời, hai dòng nước mắt…
Ký ức ùa về.
Khốc liệt và đau thương.
Cũng một buổi chiều, gần tròn 26 năm.
Quay đi, che giấu sự xúc động, tôi lại nghe anh Quế Chi chỉ tay về phía cầu tàu, nơi có những con tàu đang neo bến, “Tháng 4 năm 1983, tàu tôi cũng đã đến đó.”
“Vậy ra anh cũng từng đến đây?” Tôi ngạc nhiên.
Anh Chi cười hiền lành, “Ừ. Tàu tôi đến nhưng họ không cho lên bờ bởi vì có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ghé. Tụi tôi ở đó hai ngày thì được chỉ sang đảo Kuku.”
Nói rồi anh quay sang đưa tay chỉ tôi một ngôi nhà sơn trắng, có lẽ là một bưu điện, nói tiếp, “Khi đó, tôi nhờ một người dẫn lên bờ, bán một chỉ vàng và vào nhà đó đánh điện tín về nhà báo tin đã đến.”
Anh Chi cảm thấy vui lắm khi bắt gặp lại những dấu tích ngày xưa.
Ai ngờ, quay quắt một vòng, hơn một phần tư thế kỷ.
Sau khi nhận phòng nơi nhà nghỉ bình dân của xóm đảo mà nhiều người còn ngỡ ngàng “không có vòi sen, không có bồn rửa mặt, không có nước nóng, chỉ có một bể chứa nước và một cái ca múc nước tắm,” chú Thái cùng anh em chú Hanh, chú Đức, cô Phi và tôi đi dạo trên đảo.
Nhiều hình ảnh thú vị được ghi nhận.
Những em bé xíu trong trang phục người Hồi Giáo chạy xe đạp vòng quanh xóm. Những cái ăng-ten parapol thiệt lớn đặt trong những con hẻm thiệt nhỏ, bên cạnh những căn nhà cũng rộng chừng cái parapol. Những thanh niên đá banh trên mảnh đất lớn trong cái nóng cháy da. Những nụ cười thân thiện của nhiều người dân bản xứ chạy xe máy lướt qua.
Những quán ăn lùm tùm thường bắt gặp nơi xóm lao động ở Việt Nam. Những hàng bán thịt xiên nướng nghi ngút khói than. Những chiếc xe đẩy như xe mì gõ, cháo huyết ở Sài Gòn. Những người đàn ông ngồi vắt vẻo trên xe ôm chờ khách.
Những ngôi nhà đủ hình thù, dáng vẻ và chất liệu. Cả một cái “cầu tiêu” lộ thiên như cầu cá tra nằm lẫn trong vô vàn những cái có thể gọi tên và không biết gọi tên, cũng được thu vào ống kính.
Đặt chân đến đây rồi, càng không biết nên định nghĩa như thế nào về chữ “ngôi nhà” và “sự lam lũ.”
Cùng một thế giới, cùng một loài người, nhưng giống nhau và khác nhau nhiều lắm. Có điều, trên vẻ mặt dù đen dù trắng, dù sang trọng hay cơ hàn, chỉ cần nhìn nụ cười, đủ biết họ có hạnh phúc với những gì họ đang có hay không.
Đi lang thang ra đến cầu tàu, mặc cho xe cứ chạy qua chạy lại, chúng tôi tựa vào thành cầu, nghe nhà báo Đinh Quang Anh Thái kể về chuyến vượt biên dài 16 ngày của mình trước khi quyết định đục tàu để được cho lên bờ Terempa. Sau 6 ngày ở Terempa, mọi người trên tàu chú được đưa sang đảo Kuku. Chưa kịp hưởng không khí “tự do tị nạn” chú Thái bị cảnh sát Indonesia đến bắt và “đánh liền” bởi “một thằng trên tàu nó hận mình nên tố mình là cộng sản ngay khi vừa lên đảo.”
“Con người khốn nạn lắm nhưng con người cũng cao cả lắm.” Tôi nghe và cảm nhận thật rõ ràng điều đó qua những câu chuyện và những điều chứng kiến trong hành trình này.
Để mỗi nửa đêm, tôi lại thức dậy, viết xuống và viết tiếp, những câu chuyện còn mãi với ngàn sau…