Chuyện người mẹ: “Đời không như cô tưởng”
Vào ngày thứ Bảy, hôm sau khi nhận được cú điện thoại đầu tiên từ người con rể cũ, tôi đã gọi và để lại lời nhắn trong điện thoại cô Hằng.
Trong lúc chờ liên lạc, tôi nhớ lời tổng thư ký nói, “Mẹ con người ta bặt tin nhau mấy chục năm, giờ có manh mối mà mình chần chừ bắt họ chờ thì coi chừng họ vỡ tim.”
Tôi nghĩ mình nên bắt đầu câu chuyện với người mẹ, bà Thọ. Tôi gọi cho bà khi ngày Thứ Bảy đã bắt đầu tắt nắng.
Hơn nửa tiếng trò chuyện, tôi dần dần hiểu ra phần nào cảnh ngộ chia ly và những điều khó hiểu.
Sau khi sinh ra người con gái mang tên Nguyễn Thị Thu Hằng được ít tháng thì chồng bà Thọ, tức là bố cô Hằng, khi ấy là một quân nhân người nhái, bị mất tích. Bà Thọ bồng con về nhà mẹ ruột chờ chồng, trong khi “lúc nhỏ, Hằng rất khó nuôi, cứ khóc suốt.”
Khoảng hai năm sau, do hoàn cảnh, bà Thọ lập gia đình với người đàn ông khác.
“Tôi nói thật, chuyện đời không như cô tưởng đâu. Người chồng sau rất thương tôi nhưng lại ghen với cả dĩ vãng của tôi, nên bao nhiêu giận dữ ổng trút hết lên người con nhỏ.”
Không muốn chứng kiến cảnh “cha ghẻ, con vợ,” bà Thọ mang con về gửi lại bên nhà chồng cũ. “Tôi đành phải cắn răng đưa con Hằng về bên nội nó. Lúc đó tôi đau lòng lắm, nhưng tôi chẳng thà để nó về với dòng giống ruột thịt của người ta, cháu người ta thương, người ta sẽ nuôi nó nên người. Đằng này nếu tôi ôm nó, nó cũng không sung sướng gì. Thành ra tôi rất là khổ.” Bà Thọ kể trong tiếng sụt sùi.
Bà Thọ không nhớ rõ năm đưa con về nội. Trong các cuộc nói chuyện, tôi nhận thấy bà Thọ ít nhớ một cách chính xác các cột mốc thời gian. Lúc trước, khi nói về chị Hằng, bà cũng chỉ nhớ chị sinh vào năm con gà, chứ không nhớ năm Tây.
Bà kể tiếp, “Sau này, tôi còn qua lại nhiều lần thăm viếng nó mà. Tôi có đem nó về chơi với thằng Giang, em cùng mẹ khác cha với nó nữa. Chắc ấn tượng đó Hằng còn nhớ.”
Theo lời bà Thọ, bà vẫn tiếp tục giữ liên lạc với gia đình bên nội của con gái mình, cho đến khi “ba con Hằng trở về” sau nhiều năm mất tích. Ông chồng bà Thọ tái xuất hiện, nhưng bà đã có chồng mới, ông chấp nhận chuyện đó, và Hằng vẫn ở với bên nội.
Sau năm 1975, “khoảng năm 76 gì đó, có một đôi lần ông ấy đến rủ tôi đi vượt biên, nhưng tôi không đi, vì đã có thêm con với người chồng sau. Tôi mất tin ba con Hằng từ đó.”
“Rồi khi tôi đến tìm thăm thì nhà bà nội con Hằng cũng đã dọn đi chỗ khác, tôi kiếm không ra luôn,” bà kể.
Tôi nghe tiếng bà như tự nói, “Đúng là sự đời họa phước bất lường. Tôi không ngờ chuyện thằng Duy (“người đàn ông cầm dao rượt mẹ”) xảy ra, tôi lại được tin đứa con gái mất tích mất chục năm.”
Vẫn bằng giọng xúc động, bà Thọ giải bày, “Cuộc đời tôi có nhiều cảnh ngộ ngang trái. Nuốt nước mắt mà chia tay con. Giờ này nghe nó còn sống thì tôi mừng lắm rồi, không mơ ước gì thêm. Còn nó nhìn tôi hay không nhìn, điều đó không quan trọng đối với tôi đâu, tại mình thiếu bổn phận trách nhiệm với nó mà. Mẹ con có gặp nhau không là do cái duyên, chứ với tôi như vậy là mừng lắm rồi. Tôi thật sự ngạc nhiên đó. Một cái gì đó hết sức ngỡ ngàng mà tôi không dám tin là thật đó, cô à.”
Nghe bà nói vậy, tôi chỉ biết an ủi, “Đứa con nào rồi cũng muốn đi tìm cội nguồn của mình thôi. Con nghĩ qua cơn xúc động, chị Hằng sẽ gọi điện gặp cô.”
Điều tôi cảm nhận được sau cuộc trò chuyện với bà mẹ Cát Thị Thọ đó là một bức tường vô hình đã được dựng lên trong tình cảm của bà, bởi mặc cảm tội lỗi của một người mẹ bỏ rơi con mình
Nỗi niềm người con: “Mẹ tôi không hề đi tìm tôi”
Hơn nửa ngày Chủ Nhật tiếp theo của tôi trôi qua với lô lốc những công việc cần làm ở tòa soạn. Quá nửa giờ chiều, tôi gọi cho chị Hằng.
Tim tôi như đánh thót khi nghe tiếng người trả lời từ đầu dây bên kia. Tôi mở đầu cuộc nói chuyện một cách ngập ngừng bởi giọng chị có vẻ gì như hơi dè chừng, lạnh lùng, lại có vẻ gì như chờ đợi, háo hức.
Chị “cám ơn” khi tôi đề nghị sẽ bắt đầu bằng cách kể lại những gì tôi biết. Kể tường tận hoàn cảnh hiện tại của mẹ chị, nhắc lại cả giọng nói bất ngờ đến thảng thốt của mẹ chị khi nghe tin chị đang ở San Jose.
Tôi kể đến đó, chị lên tiếng hỏi, “Vậy bây giờ, chồng của ‘she’ còn không?”
Khi nghe nói bà đã ly dị từ năm 1983, lúc còn ở Việt Nam, tôi nghe như tiếng chị thở nhẹ, “ồ, vậy là ‘she’ qua đây với 3 đứa con thôi à.”
Tôi lại tiếp tục kể vì sao mẹ chị gửi chị lại nhà bà nội.
Tôi kể mẹ chị đã đi tìm chị như thế nào.
Sau tất cả những điều tôi kể, chị buông một tiếng thở dài, “Tôi vốn không có tìm mẹ. Bởi vì từ xưa đến giờ mẹ biết tôi ở đâu nhưng tôi không hề thấy tông tích mẹ tìm tôi. Vẫn một địa chỉ cũ. Cho nên ‘she’ nói có tìm tôi là không đúng.”
Tiếng nói chị nhẹ nhàng nhưng tôi nghe như mình ngạt thở.
Tôi định mở lời, chị lại nói tiếp, giọng rất rành mạch, như đã sẵn sàng cho một lần trút bỏ tất cả những gì chất chứa lâu nay.
“Chị biết mà, một đứa con không được sống gần cha mẹ thì lúc nào cũng nhớ cha mẹ mình, đúng không? Lúc nào nó cũng mong cha mẹ tìm mình đúng không? Nhưng thực sự là ‘she’ không có tìm. Đi đâu, tôi cũng để lại địa chỉ nơi ngôi nhà mà ‘she’ biết, nhưng không có ai tìm tôi hết.”
Giọng chị bắt đầu nghèn nghẹn.
“Không ai quan tâm tôi hết. Từ nhỏ tới lớn, tôi sống rất mặc cảm với xã hội, nhất là xã hội Việt Nam. Ai cũng có cha có mẹ, mình cũng có cha nhưng cha không ngó tới. Có mẹ, mẹ cũng bỏ đi biệt luôn. Mẹ chỉ đi thăm tôi một lần rồi đi biệt luôn. Ngày nào tôi cũng trông mẹ. Nhưng mà…”
Tiếng chị nức nở phía đầu dây bên kia. Tôi thấy mắt mình bắt đầu nhòe nhoẹt.
“Nhưng mà không có gặp nữa. Tôi đã cho đó là số phận. Không trách cha, không trách mẹ, và cũng đã tự mình phấn đấu vươn lên để ngẩng mặt nhìn đời, để không ai chê cười mình là đứa con không cha không mẹ không ra gì.”
Người con gái nhắn, “Chị cứ nói cho ‘she’ biết là con của ‘she’ sống rất đàng hoàng, sống không hổ thẹn với đời và cũng không trách oán gì ‘she’ hết. Nhưng để mà gặp lại thì chưa có chuẩn bị. Vì nếu mà gặp lại mà do mẹ tìm mình thì tôi sẵn sàng. Còn nếu vì chồng cũ của tôi tìm thì tôi không gặp, bởi tôi không có tin người này nữa.”
Ngay lúc giọng chị trở nên hơi hốt hoảng bảo tôi đừng cho số điện thoại của mẹ chị cho người đàn ông tên T.N, tôi đã cảm nhận ngay được ẩn sau những lời oán trách đó, người con gái này thương mẹ mình đến mức độ nào.
Tôi chia sẻ những cảm xúc của một người mẹ, một đứa con với Hằng.
Chị khóc. Tôi khóc.
Chị khóc cho những nỗi niềm, những ẩn ức của mình suốt mấy mươi năm qua, tưởng rằng đã được chôn vùi, giờ đây bỗng trỗi dậy.
Tôi khóc cho niềm cảm thông và chia sẻ với những nỗi đau rất đời mà người con gái cũng chừng tuổi tôi phải gánh chịu.
Chị nói tôi nghe cảm giác của một đứa bé nhớ mẹ nằm khóc hằng đêm.
Chị nói tôi nghe chị thèm một tiếng kêu mẹ đến mức gặp mẹ của đứa bạn nào cũng muốn gọi bằng mẹ, dù rằng “họ có phải mẹ mình đâu.”
Chị nói tôi nghe chị thèm cảm giác được nhõng nhẽo, được mẹ an ủi, vỗ về, ôm ấp, yêu thương. “Nhưng mà tất cả đều không có chị à.”
Tôi lặng im ngồi nghe chị trải lòng, mặc cho nước mắt cứ tuôn.
Một tấm hình quý báu
Tiếng chị theo dòng hồi ức cứ đều đều vang lên, giúp tôi hình dung một đứa bé sớm hiểu được cảnh ngộ của mình, lầm lũi lớn lên, mang nặng trong tâm tư mặc cảm của đứa con bị cha mẹ chối từ. Nhưng đứa con đó đã không vào đời bằng lòng thù hận, ganh ghét, nó gom góp những kỷ niệm đẹp đẽ nhất về người mẹ mà chắt chiu, gìn giữ.
“Tôi quí từng kỷ niệm với mẹ. Có được một tấm hình mẹ bồng lúc nhỏ, tôi cất giữ như báu vật để rồi sau đó không biết mình cất nó ở đâu. Lạc mất tấm hình như mất một kho tàng. Sau này lớn lên gặp người quen biết nào cũng hỏi ‘có hình của mẹ con không?’ Lúc qua Mỹ gặp người anh họ cũng hỏi, ‘anh có hình mẹ em không?’ Ảnh cho tấm hình nhỏ xíu.”
“Mừng còn hơn được vàng nữa,” chị nói.
Mang về, chị dùng computer tự làm thành một tấm hình có đủ cha đủ mẹ. “Ai nói tôi không thương mẹ thương ba?”
Chị lại kể tiếp tôi nghe chị đã sống lây lất trong 6 năm qua vừa làm một “single mom” nuôi con khi không có bất cứ sự trợ cấp nào của chồng, vừa phải gánh thêm khoản nợ mấy chục ngàn do chồng cũ để lại ra sao.
“Nhưng bây giờ đã qua hết rồi. Tôi lúc nào cũng cầu mong cho mẹ mình được hạnh phúc, chỉ vậy thôi. Không muốn gì hơn nữa. Chị cứ nói là chị đã không gặp tôi. Tôi không muốn gặp ai hết. Cứ để cuộc sống yên như vậy, đừng đảo lộn nó nữa. Tôi vốn không chịu nổi nữa…”
Chờ cho cơn xúc động hơi lắng xuống, tôi nói chị nghe những cảm nhận của tôi trong lần nói chuyện với mẹ chị, “Mặc cảm tội lỗi của một người mẹ bỏ rơi con luôn đè nặng trong lòng bà.”
Giọng chị dịu lại, “Tôi đâu ít kỷ và hẹp hòi như vậy. Nhưng sau những gì đã xảy ra, tôi chưa chuẩn bị tư tưởng.”
Trong cuộc nói chuyện, chị Hằng cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu nói, “Mẹ tôi không hề đi tìm tôi.”
Tất cả vấn đề dường như nằm ngay trong câu nói đó.
Được mẹ ôm trong vòng tay, được gọi “mẹ” là điều bình thường đến hiển nhiên đối với hầu hết những ai có mặt trong cuộc đời này. Thế nhưng, với người con gái ấy, đó lại là một nỗi khát khao đến cháy lòng suốt hơn 30 năm qua.
Đưa tay lau nước mắt, tôi bộc bạch với chị điều tôi nghĩ, “Mỗi người đều có những lý do cho mỗi hành động của mình. Chị có những trăn trở, những thắc mắc không tìm thấy câu trả lời. Mẹ chị có những tâm sự, những nỗi niềm chưa thể giãi bày. Vậy tại sao không một lần đối diện để mà đi đến tận cùng những uẩn khúc?”
“Tôi cần một tình thương thật sự. Tôi cần một tình thương mà tôi phải cảm nhận được. Tại sao tôi nói chuyện với chị, tôi lại có được những ‘feelings.’ Vậy tại sao mẹ mình lại không cho mình những feelings như vậy?” Chị hỏi tôi.
Tôi lại chia sẻ với chị, người con gái lần đầu tiên tôi nói chuyện, chỉ hơn tôi vài tuổi, những điều thuộc về cảm giác không thể diễn tả bằng lời, không thể nói thay người khác, mà chỉ có chính người trong cuộc, bằng trực giác và cảm giác của mình mới cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn.
Cuộc nói chuyện giũa tôi và chị Hằng đã bớt nặng nề hơn. Chị cho tôi email để tôi gửi cho chị link những bài báo có nhắc đến mẹ chị, và cũng để chúng tôi có thể giữ liên lạc với nhau.
Giọng chị chùng xuống, “Mình rất buồn là khi nghe giờ đây bà ấy sống một mình. Mình cứ ngỡ bà có một mái gia đình sống hạnh phúc với chồng với con, chứ không phải sống như thế. Trong ấn tượng của mình, mẹ luôn là người đẹp nhất. Mình cũng cầu mong cho bà được hạnh phúc.”
Tôi nhận ra: Chị đã hết gọi mẹ là “she.”
Còn thiếu 6 phút nữa là đúng 3 tiếng đồng hồ cho cuộc trò chuyện giữa tôi và chị. Chúng tôi đi đến một thỏa thuận: tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với người mẹ để quyết định xem có cần không một cuộc hội ngộ.
“Mình tin bạn, tin vào giọng nói của bạn. Hãy tưởng tượng bạn là mình đi há. Nếu bạn có ‘feelings’ như thế nào trong những lần nói chuyện sắp tới với mẹ mình, thì mình cũng sẽ có ‘feelings’ như vậy.”
Chị đặt vào tôi niềm tin đó. Niềm tin vào cảm giác của một người phụ nữ, một người con và một người mẹ.
Chúng tôi kết thúc bằng tiếng cười trong trẻo khi vạch đỏ báo hết pin đã xuất hiện trên điện thoại của tôi.
Ngoài đường, bóng tối cũng đã buông.
Kỳ 3: Cuộc trùng phùng

Thật là kỳ diệu. Vô cùng hấp dẫn Lan ơi. Thanks for sharing.
LikeLike
đọc tới đâu, nỗi da gà lên tới đó. “Mẹ không hề đi tìm tôi”. Nghe đau lòng quá à. Là mẹ, nghĩ lại thắt ruột. Nhưng đúng là mỗi người 1 cảnh. Giờ gặp được nhau rồi. Có thể giải tỏa như vầy. Là quí quá.
LikeLike
Đọc mà thấy lòng mình cũng rưng rưng…
LikeLike
Nghẹt thở cùng những dòng đối thoại. Pose nhanh nhanh đi chị.
LikeLike
Đúng là Trời xui, Đất khiến hé.
LikeLike
Rưng rưng luôn. Cảm ơn NL. Tiếp tục đi nào, lẹ giùm đi
LikeLike