Kí ức ngày mưa

“Chuẩn bị phỏng vấn 1 người ở Úc” là nhiệm vụ tôi được giao ngay khi vừa vào đến tòa soạn sau mấy ngày nằm lì ở nhà.
Ai? Carina Oanh Hoàng, người vừa có chuyến về lại các trại tị nạn ở Indonesia để tìm người thân, đồng thời lại tìm ra được gần 20 ngôi mộ của người Việt Nam chưa có thân nhân nhận, hồi tháng 9 vừa qua.
Mở trang web cá nhân của chị Carina, chưa đọc được bao nhiêu thì nghe anh TG hỏi, “NL biết tin gì không?” “Tin gì?” “Trong số 17 ngôi mộ chưa có người thân nhận do chị Carina tìm ra, thì có 1 cái là của người em gái út chú Lê Văn Trần, 1 cái là của bạn Hạo Nhiên.” “Trời, thật sao?”
Vừa nói xong thì chú Lê Văn Trần, trước cũng làm việc cho báo NV, mang bài viết về cảm xúc của chú khi đọc được bài báo hôm qua và phát hiện ra phần mộ em gái mình sau gần 30 năm…
Cầm bản copy trong tay, tôi đọc và quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt…
Tôi lần giở lại trang web của chị Carina, người mà chiều nay tôi sẽ phỏng vấn qua điện thoại đường dài, để tìm thông tin.
Ðọc một chốc, tôi lại phải vớ tay lấy ly nước uống để giấu bớt cảm xúc, đọc một chốc nữa, tôi lại phải bước ra ngoài…
Không chỉ là câu chuyện vượt biển của chị Carina, không chỉ là những hồi ức của chị, mà tình cờ trong ngày mưa gió này, tôi lại sống trong hồi ức của một người bạn.
Kéo tay mở hộc bàn, tôi lôi ra một phong bì lớn, trong đó có cả một xấp dày những bản copy đã nằm yên đó từ hơn một năm qua. Những bài viết từ blog, những câu chuyện kể bằng email của bạn mà tôi đã nghe, đã đọc, đã nghiền ngẫm, để viết lại…
Và những bản nháp còn dang dở…
Tôi lại chợt nhớ một người người thân của gia đình bạn, “trắng bóc như con gái, và nói giọng Huế ‘trây’ luôn,” đã mất tích trong một chuyến ra đi…
Không biết trong số 15 người có tên còn lại trong danh sách, có còn người quen biết nào của mình nữa không…
****
Một trong những hồi kí của Carina Oanh Hoàng:

“Tôi đã giúp chôn một đứa bé”

Chưa đầy một tuần sau khi chúng tôi đến đảo Kuku, một số người đã dựng được những túp lều bằng cây và lá, đặc biệt những gia đình nào có đàn ông khỏe mạnh, họ có thể vào rừng đốn cây về dựng lều. Còn lại đám chúng tôi ngủ ngoài trời. Ban ngày, chúng tôi chui vào những bóng cây để trốn nắng.
Gia đình nhỏ bé của tôi có 3 người, tôi 16 tuổi, Saigon – em trai tôi, 14 tuổi, và Mimi, em gái tôi, 12 tuổi. Chúng tôi vừa không đủ sức để dựng lều, mà dụng cụ chúng tôi có được cũng chỉ là 1 con dao bỏ túi.
Tối hôm đó, trời tối đen, không trăng, chỉ vài ngôi sao trên trời. Tôi ngồi bên ngoài lều của chủ tàu. Gia đình họ có khoảng 20 người lớn nên chiếc lều của họ là chiếc đầu tiên và lớn nhất trên đảo.
Hướng về chiếc lều, qua những cây gỗ, tôi nắm tay của Mimi và Saigon trong khi 2 đứa đang nằm trong lều, cả 2 đều bị tiêu chảy và sốt. Gần tôi là một cặp vợ chồng trẻ với đứa con gái 10 tháng tuổi, nó bị tiêu chảy đã 4 ngày rồi. Người ta có cho nó uống thuốc nhưng nó không bớt. Thoạt đầu, tôi nghe tiếng người vợ thì thầm đánh thức chồng dậy. Sau đó, tôi nghe tiếng cô khóc lớn, “ôi, chúa ơi, không, chúa ơi, không.”
Sau đó cả hai vợ chồng ôm nhau nức nở.
Nhiều người tỉnh giấc khi nghe tiếng khóc, và bắt đầu xì xào.
Tôi cùng một người phụ nữ và một người đàn ông lớn tuổi ngồi ngay bên hai vợ chồng và đứa bé. Chúng tôi thắp vài ngọn nến; theo sự hướng dẫn của người phụ nữ, tôi tắm cho đứa bé bằng chiếc khăn ướt, thay quần áo cho nó. Người phụ nữ bảo tôi phải cắt hết nút áo đứa bé. Tôi không biết tại sao, nhưng vì không tìm đâu ra con dao nhỏ của mình nên tôi cứ dùng răng mà cắn đứt hết nút áo của nó. Người đàn ông lớn tuổi lấy 1 phần cái giường đứa bé làm thành chiếc hòm. Tôi niềng chiếc hòm lại bằng những bao nilong, xong bỏ hết quần áo đã tháo nút của nó vào, rồi đặt nó nằm lên trên. Xác đứa bé đã lạnh ngắt và nhìn như một con búp bê.
Tôi nghe tiếng khóc của cặp vợ chồng, nhưng tôi bận quá nên không nhìn xem họ đang làm gì. Khi người đàn ông lớn tuổi đóng nắp hòm lại, và đặt ngọn nến lên trên, thì người mẹ dang tay về chiếc hòm, gục mặt mình lên đó và khóc thét, “con ơi, con ơi, đừng bỏ mẹ!”
Tôi không biết mình đã mất bao lâu để làm những việc đó. Khi tôi quay về để tìm Mimi và Saigon thì chúng vẫn còn đang ngủ và bớt sốt. Ngồi trong bóng đêm, tôi nhìn chằm chằm vào chiếc quan tài và đầu tôi đầy ắp suy nghĩ về những điều gở.
Lúc đó, tôi không kiềm được nữa và bật khóc, tôi nhớ tôi van xin chúa đừng để Mimi và Saigon chết. Trong đầu tôi, tôi tự hỏi, tôi sẽ phải nói sao với mẹ tôi nếu như có chuyện gì xảy ra cho Mimi hay Saigon… và lỡ như nếu 2 đứa chết trên đảo này thì tôi sẽ sống sao đây? Liệu tôi có nên tiếp tục sống nữa hay không?
Nhìn lại quá khứ, tôi cảm thấy lạ là tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi sẽ chết trước 2 em tôi; tôi như đoán biết trách nhiệm lớn lao của mình đối với chúng, tôi không cho phép mình chết, bởi tôi chết rồi, ai sẽ chăm sóc chúng đây?
(NL dịch)

This photo is the closest to my memory of the young mother holding her dead baby that one night in August 1979 on Kuku Island. (Photographer: Eddie Admas. Caption by Carina Oanh Hoang)