Trích một đoạn trong bài viết cho một tờ báo (không phải NV :p)
Trích thôi, bởi không thì dài đọc oải quá, hehe!
ViFF và những điều còn đọng lại
Ngọc Lan
[…]
Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt
Thực sự, việc cảm nhận và đánh giá nội dung một bộ phim như thế nào là hay tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vấn đề tác động của nền văn hóa và môi trường sống cũng như những trải nghiệm về cuộc sống riêng của mỗi cá nhân góp phần không nhỏ vào việc cảm thụ.
Ðối với một dân tộc thấm nhuần văn hóa Khổng Giáo phương Ðông và hiện nay đang sinh sống và phát triển trên một vùng đất màu mỡ của nền văn hóa Âu Mỹ đa dạng thì việc tìm được một sự đồng điệu đồng cảm đối với mỗi bộ phim là một điều không dễ dàng. Bởi nó thể hiện chiều sâu văn hóa, tâm linh cội nguồn mà mỗi người còn cất giữ cho riêng mình. Ðiều này có thể thấy rõ ràng qua việc khán giả bình chọn phim Babylift là bộ phim hay nhất dù đây là một phim tài liệu. Bởi đọng lại ở người xem, cho dù là khán giả Việt hay Mỹ, hay pha trộn giữa Việt và Mỹ chính là nỗi niềm: Trẻ thơ không có quyền lựa chọn thời điểm để được sinh ra nhưng lại là người phải chịu đựng, dự phần và trả giá cho những biến động lịch sử mà chúng vô tình bị ném vào. Những thương tổn trong kí ức, trong tình cảm – nếu có – của tuổi thơ chỉ có thể lành lặn và xóa nhòa trong sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi cá nhân, bên cạnh tấm lòng và sự sẻ chia của những con người có trái tim vàng, như những người họ đã gặp trong phim.
Trong khi đó thì nội dung bộ phim “Trăng Nơi Ðáy Giếng” của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn đến từ đất Thần Kinh lại nhận được những phản hồi khác nhau. Với những người còn ảnh hưởng nhiều và hiểu rõ quan niệm “phu xướng phụ tùy,” hay việc tận tụy hy sinh vì chồng là thể hiện tình yêu, trách nhiệm và bổn phận của người vợ, người phụ nữ Việt Nam thì họ sẽ nhìn thấy và cảm thông với bi kịch của nhân vật Hạnh. Ngược lại, với những ai lớn lên và trưởng thành trong môi trường mà sự bình đẳng giữa nam và nữ được coi trọng, thì có lẽ họ sẽ “không thể nào chấp nhận và chịu được mẫu hình cá tính của nhân vật chính trong phim” bởi họ cho rằng “nó không thực.”
Và phải chăng, sự không thống nhất trong việc cảm nhận bộ phim cũng chính là những bằng chứng cụ thể và sinh động nhất về những xung đột tư tưởng giữa các thế hệ người Việt Nam đang sống trên đất Mỹ, thậm chí ngay cả ở những người trẻ trưởng thành trong nước và nơi đây?
Cho dẫu là gì đi nữa thì các bộ phim cũng đã góp phần đưa đến cho người xem nhiều diện mạo, nhiều sắc thái, nhiều vấn đề của một dân tộc nhỏ nhưng có quá nhiều những ẩn ức mà muốn hiểu được nó không thể chỉ là chuyện một sớm một chiều.
ViFF đã bế mạc, ngoài những kinh nghiệm được mất của những người tham gia mang tính chuyên nghiệp thì đâu đây, những câu chuyện về các bộ phim được trình chiếu, những băn khoăn về những cuộc đời, những số phận, những con người và cả những thắc mắc muốn tìm mua để sở hữu được những bộ phim đó của những khán giả bình thường chính là những phần thưởng dành cho ban tổ chức ViFF – những người gắn kết nhau không chỉ bởi niềm đam mê nghệ thuật mà cả bằng cái tâm trong sáng muốn đóng góp một chút sức mình trong việc khẳng định tiếng nói của người Việt Nam trên con đường hội nhập.

You must be logged in to post a comment.