ViFF và những điều còn đọng lại

Buổi trình chiếu “All About Dad” của đạo diễn Mark Tran – bộ phim cuối cùng trong số hơn 60 phim tham dự cùng lễ trao giải các bộ phim được bình chọn của ban tổ chức và khán giả vào tối Chủ Nhật 12 Tháng Tư vừa qua đã khép lại Ðại Hội Ðiện Ảnh Việt Nam Quốc Tế lần thứ 4 (Vietnamese International Film Festival – The 4th Edition) do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) và Hội Ngôn Ngữ Văn Hóa Việt Nam (VNLC) thuộc trường đại học UCLA tổ chức.
ViFF được thực hiện hai năm một lần và thời gian của đại hội năm nay diễn ra từ ngày 2 đến 5 Tháng Tư và từ 9 đến 12 Tháng Tư tại đại học UCI, rạp Edward University Cinema 6, trường đại học UCLA, và Viện Bảo Tàng Bowers, Santa Ana.
Ngay sau khi kết thúc Dạ Tiệc Bế Mạc Ðại Hội, cô Quyên Lâm (đồng Giám Ðốc ViFF 2009) nói với tôi: “Tất cả những gì đã diễn ra đều vượt hơn những điều mong đợi của ban tổ chức.” Cô cho biết những lo lắng ban đầu về sự hiện diện tham gia của các đạo diễn, các đoàn làm phim… trong bối cảnh kinh tế đang lúc khó khăn, vấn đề di chuyển tốn kém tiền bạc và thời gian… đã hoàn toàn biến mất khi mà hơn 60 bộ phim được trình chiếu trong 24 buổi thì buổi nào cũng có ít nhất một người đại diện các bộ phim tham gia giao lưu trả lời các câu hỏi do khán giả đặt ra.
Kế nữa là lực lượng tình nguyện viên, tuy rằng áp lực học tập khá nặng nề nhưng họ – phần lớn là sinh viên của UCLA và UCI – đã hỗ trợ rất nhiệt tình cho ViFF trong suốt thời gian diễn ra đại hội. Tất cả đều tham gia với một tinh thần tự nguyện hăng say, không vì bất kì một quyền lợi về thù lao nào. Bên cạnh đó, “lượng khán giả người Việt đến xem phim và tham gia thảo luận với một thái độ rất lịch sự cũng là điều vượt quá sự mong chờ.”
Nếu mục tiêu của đại hội này, theo ban tổ chức, là hỗ trợ và quảng bá những tác phẩm điện ảnh của các đạo diễn người Việt, hoặc gốc Việt, trên thế giới, đồng thời cũng là nhằm hỗ trợ và quảng bá những phim quốc tế nói đến con người hoặc văn hóa Việt Nam, thì người đến với ViFF cũng có nhiều tâm trạng và cảm hứng khác nhau.

Tìm đến không khí ViFF

Một bạn du học sinh đến đây ngoài việc tìm hiểu học hỏi thêm những điều bổ ích cho chuyên ngành điện ảnh mà bạn đang đeo đuổi thì “cái không khí trong sáng vô tư” của các thiện nguyện viên cùng “cái tâm” của những người trong ban tổ chức là điều kéo bạn trở lại lần đại hội này sau khi đã có tham dự đại hội lần 3.
Ðạo diễn sân khấu Minh Ngọc đồng thời cũng là người viết kịch bản phim thì đến với ViFF “không phải là để học” mà trước hết là để đi tìm cho mình một cảm hứng cho những dự án mà chị đang ấp ủ.
Còn đạo diễn Bùi Thạc Chuyên đến từ Việt Nam thì ví việc tham gia đại hội điện ảnh lần này như sự “trở lại một nơi gặp gỡ những người bạn thân quen.”
Bên cạnh đó cũng có những người tìm đến với ViFF “ban đầu chỉ là do sự tò mò” nhưng “hết phim này đến phim khác cứ như níu chân họ phải tiếp tục sắp xếp thời gian để có thể xem thêm nhiều phim khác nữa.”
Tuy có những khác nhau về xuất phát ban đầu như thế nhưng điều quan trọng vẫn là những gì còn đọng lại trong lòng mọi người tham gia Ðại hội điện ảnh Việt Nam Quốc Tế lần này.
Ấn tượng chung nhất mà hầu hết mọi người đều có về Ðại Hội Ðiện Ảnh lần 4 đó là “nhiều phim hơn, tổ chức lớn hơn, người làm phim càng ngày càng trẻ hơn và chủ đề cũng đa dạng hơn.”

Cảm quan của thế hệ trẻ

Bằng cảm quan của những người trẻ, hầu hết các bộ phim đều bám sát hiện thực, thể hiện những cái nhìn sắc và sâu dưới nhiều góc độ của cuộc sống từ số phận của những đứa trẻ mồ côi lìa xa quê hương; từ cuộc sống khó khăn tạm bợ của những người di dân; đến những va chạm, xung đột giữa các thế hệ trong một nền văn hóa mới; hay cả những điều thuộc về tâm thức của một đất nước mang đậm nền văn hóa Á Ðông… Tất cả đã được ghi dấu qua nhiều thể loại phim khác nhau không chỉ của đạo diễn người Mỹ gốc Việt, đạo diễn trong nước mà bằng cả sự phản ảnh của những đạo diễn nước ngoài về con người Việt Nam trong quá khứ và hiện tại.
Ðánh giá về mức độ thành công của ViFF, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên cho rằng “không thể trông đợi một sự đột phá hay một cái gì thực sự mới mẻ chỉ gói gọn trong vài tiếng hội luận, nhưng điều quan trọng là các đạo diễn, các nhà làm phim có thể chia sẻ với nhau cái nhìn về một bức tranh toàn cảnh của thị trường phim ảnh trong nước và thế giới.” Theo anh, “Ðiều quan trọng nhất là sự kết nối giữa người làm phim trong nước và ở hải ngoại. Những đạo diễn Việt kiều đã đóng góp cho nền điện ảnh trong nước những bộ phim, những sắc thái văn hóa, những tiếng nói tích cực, có thể nói đó là sự hợp tác, sự chia sẻ mà đại hội phim muốn hướng tới.”
Trong khi đó việc “tìm thấy sự cộng hưởng, cùng tần số, cũng như cơ hội mở ra những dự án mới” là điều mà đạo diễn Minh Ngọc thu được khi tham gia ViFF lần này. Chị cho rằng ngay cả “những tác động âm” ở một vài bộ phim cũng để lại những kinh nghiệm quí giá cho bản thân chị, giúp chị né tránh được những điều không hay cho những bộ phim mà chị đang ấp ủ.
Nhà sản xuất và phát hành phim Nguyễn Ðỗ Như Khuê thì lại cho rằng rất nên có những dịp như thế này bởi “Người Việt sống ở nhiều nơi trên thế giới, thì những dịp như thế này là cơ hội để mọi người có thể gặp gỡ và chia sẻ với nhau những suy nghĩ, những kinh nghiệm. Cho nên dù có những bộ phim rất hay bên cạnh những phim chỉ mới dừng lại ở bước chập chững thì đây vẫn là cơ hội tốt cho những người làm nghề.”
Nói về các bộ phim đoạt giải, trên cơ sở: Kỹ thuật quay phim, diễn xuất, giá trị sản xuất, giá trị nghệ thuật và cốt truyện thì phim “A Summer Rain” của đạo diễn Ela Thier và “Footy Legends” của đạo diễn Khoa Ðỗ (một người Việt Nam từng được nước Úc chọn là “Young Australian of the Year”) đã đoạt giải Trống Ðồng do ban tổ chức bình chọn.
Hai bộ phim “Delivery Day” (cũng của Khoa Ðỗ) và “Operation Babylift: The Lost Children of Vietnam” của đạo diễn Tammy Nguyễn Lee được trao giải bình chọn của khán giả.

Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt

Thực sự, việc cảm nhận và đánh giá nội dung một bộ phim như thế nào là hay tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vấn đề tác động của nền văn hóa và môi trường sống cũng như những trải nghiệm về cuộc sống riêng của mỗi cá nhân góp phần không nhỏ vào việc cảm thụ.
Ðối với một dân tộc thấm nhuần văn hóa Khổng Giáo phương Ðông và hiện nay đang sinh sống và phát triển trên một vùng đất màu mỡ của nền văn hóa Âu Mỹ đa dạng thì việc tìm được một sự đồng điệu đồng cảm đối với mỗi bộ phim là một điều không dễ dàng. Bởi nó thể hiện chiều sâu văn hóa, tâm linh cội nguồn mà mỗi người còn cất giữ cho riêng mình. Ðiều này có thể thấy rõ ràng qua việc khán giả bình chọn phim Babylift là bộ phim hay nhất dù đây là một phim tài liệu. Bởi đọng lại ở người xem, cho dù là khán giả Việt hay Mỹ, hay pha trộn giữa Việt và Mỹ chính là nỗi niềm: Trẻ thơ không có quyền lựa chọn thời điểm để được sinh ra nhưng lại là người phải chịu đựng, dự phần và trả giá cho những biến động lịch sử mà chúng vô tình bị ném vào. Những thương tổn trong kí ức, trong tình cảm – nếu có – của tuổi thơ chỉ có thể lành lặn và xóa nhòa trong sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi cá nhân, bên cạnh tấm lòng và sự sẻ chia của những con người có trái tim vàng, như những người họ đã gặp trong phim.
Trong khi đó thì nội dung bộ phim “Trăng Nơi Ðáy Giếng” của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn đến từ đất Thần Kinh lại nhận được những phản hồi khác nhau. Với những người còn ảnh hưởng nhiều và hiểu rõ quan niệm “phu xướng phụ tùy,” hay việc tận tụy hy sinh vì chồng là thể hiện tình yêu, trách nhiệm và bổn phận của người vợ, người phụ nữ Việt Nam thì họ sẽ nhìn thấy và cảm thông với bi kịch của nhân vật Hạnh. Ngược lại, với những ai lớn lên và trưởng thành trong môi trường mà sự bình đẳng giữa nam và nữ được coi trọng, thì có lẽ họ sẽ “không thể nào chấp nhận và chịu được mẫu hình cá tính của nhân vật chính trong phim” bởi họ cho rằng “nó không thực.”
Và phải chăng, sự không thống nhất trong việc cảm nhận bộ phim cũng chính là những bằng chứng cụ thể và sinh động nhất về những xung đột tư tưởng giữa các thế hệ người Việt Nam đang sống trên đất Mỹ, thậm chí ngay cả ở những người trẻ trưởng thành trong nước và nơi đây?
Cho dẫu là gì đi nữa thì các bộ phim cũng đã góp phần đưa đến cho người xem nhiều diện mạo, nhiều sắc thái, nhiều vấn đề của một dân tộc nhỏ nhưng có quá nhiều những ẩn ức mà muốn hiểu được nó không thể chỉ là chuyện một sớm một chiều.
ViFF đã bế mạc, ngoài những kinh nghiệm được mất của những người tham gia mang tính chuyên nghiệp thì đâu đây, những câu chuyện về các bộ phim được trình chiếu, những băn khoăn về những cuộc đời, những số phận, những con người và cả những thắc mắc muốn tìm mua để sở hữu được những bộ phim đó của những khán giả bình thường chính là những phần thưởng dành cho ban tổ chức ViFF – những người gắn kết nhau không chỉ bởi niềm đam mê nghệ thuật mà cả bằng cái tâm trong sáng muốn đóng góp một chút sức mình trong việc khẳng định tiếng nói của người Việt Nam trên con đường hội nhập. (N.L)