Entry for September 27, 2008

(edited – the second time – some details had been changed)


Từ câu chuyện của một thuyền nhân…
Bên ghè đá của một bờ biển nằm không xa Little SaiGon, trong rì rầm tiếng sóng của một chiều chưa tắt nắng, qua lời kể và qua những gì đọc được, tôi trôi miên man trong câu chuyện của một thuyền nhân mang tên An Nguyễn.
“Tôi sinh ra tại miền Nam Việt Nam, vào một ngày tháng 2 năm 1966. Cha tôi là một người lính trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mẹ tôi buôn bán nhỏ. Khi cộng sản Bắc Việt tiến chiếm miền Nam tháng 4 năm 1975, cha tôi, như trăm ngàn người lính miền Nam khác, phải vào các trại ‘học tập cải tạo’ để hứng chịu sự tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần qua những công việc lao động hà khắc, qua cái thiếu ăn khủng khiếp, cũng như qua các trại biệt giam trong 12 năm ròng rã. Công việc buôn bán của mẹ tôi cũng bị tịch thu. Chúng tôi đã phải làm tất cả mọi chuyện mà chúng tôi có thể để xoay xở với cuộc sống. Tôi không hề nghĩ rằng bằng cách nào mà chúng tôi có thể tồn tại qua những năm tháng đó.
Từ năm 1980 đến 1982, tôi đã nhiều lần thất bại trong việc trốn thoát khỏi Việt Nam, và bị bắt hai lần. Mỗi lần, tôi chỉ ở tù một tháng, bởi mẹ tôi đã lo lót cho tôi thoát ra ngoài. Trong tù, tôi cũng bị đánh đập nhưng tôi không xem đó là sự tra tấn. Bởi so với những gì mà cha tôi đã trải qua, nỗi đau mà tôi phải chịu chỉ như trò con trẻ. Cuối cùng, vào tháng 6 năm 1982, ở tuổi 16, tôi đã trốn đi thành công trên một chiếc thuyền nhỏ để đến được Hồng Kông sau 4 ngày trên biển ‘South China’. Trải qua 8 tháng ở trại tị nạn, tôi đến Mỹ vào tháng 2 năm 1983…”
Có thể hình dung vài nét phác thảo về diện mạo của An là như thế. Diện mạo đó tôi cũng như bạn có thể bắt gặp trong hàng triệu thuyền nhân khác đang sống quanh đây hay ở bất kỳ một quốc gia nào khác trên trái đất này.
Nhưng để tìm hiểu một con người, một số phận, không thể chỉ dừng lại ở một dáng vẻ bề ngoài. Mỗi cuộc đời là một câu chuyện, câu chuyện đó có thể nhàm chán với người này nhưng lại là nguồn suy nghĩ cho người khác. Câu chuyện của An Nguyễn – chỉ là những mảnh kí ức cóp nhặt từ những gì còn ghi dấu trong tiềm khảm – cứ như một ma lực dẫn dắt tôi miên man trong nhiều dòng suy nghĩ, cái này dẫn tới cái kia, chuyện này liên quan chuyện nọ, tất cả cứ như xô đẩy, chen lấn nhau để mà hiện hình sao cho thật rõ ràng, thật cụ thể trong miền tâm tưởng của tôi.
Tôi suy nghĩ về từ “escape” mà An đã dùng nhiều lần để nói về chuyện “vượt biên” của mình. Tôi đã nghe cả trăm cả triệu lần từ ‘vượt biên’ nhưng sao tôi vẫn thấy lòng thật nặng khi bắt gặp từ ‘escape’. Tại sao người ta phải trốn chạy, phải cố gắng bằng mọi cách thoát đi để tìm cho mình một con đường sống khi mà Sài Gòn “giải phóng”?
“Ba mẹ tôi có 5 người con trai và 2 người con gái. Tôi thứ 5, thứ 6 là một đứa em trai và 7 là cô em gái. Người anh lớn của tôi vượt biên đến đảo Galang, Indonesis năm 1978. Sau đó 2 người anh nữa đến Paulau Bidong, Malaysia năm 1979. Kế tiếp là anh rể tôi đi năm 1980. Tôi đi năm 1982… Rồi đến chị tôi, rồi em trai tôi…”
Gia đình An chỉ là một điển hình cho chuyện “escape”. Không phải chỉ là một, là hai, mà là hàng trăm, hàng triệu người ở Việt Nam đã phải ‘trốn chạy’ như thế, để tạo thành một làn sóng di tản, tạo nên cả một trang sử thuyền nhân vô cùng bi thảm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thế nhưng, tôi băn khoăn tự hỏi, trong số hơn 80 triệu người Việt Nam còn nơi quê nhà, có bao nhiêu người hiểu hết được câu chuyện của những thuyền nhân vượt biển? Bao nhiêu người tận mắt đọc được những trang đẫm nước mắt của dân tộc mình trên cùng một quyển sách mang tên “Lịch Sử Việt Nam”?
Mỗi lần đọc chuyện của những người vượt biên là tôi cứ lại nhớ về một người bạn của mình: Trần Thị Cẩm Hồng. Kết thúc năm học lớp 10, cả lớp gần 40 đứa tụ tập đi Lái Thiêu. Không có anh em Hồng-Hùng trong số đó. Chiều ngày hôm sau, ngày cuối cùng của tháng 5 năm 1988, Như Hà đạp xe lên nhà tôi và báo tin “Cẩm Hồng chết rồi!”. Tôi sững sờ: “Sao Hà biết?”, rồi chợt nhớ ra là Như Hà và Cẩm Hồng ngồi cạnh nhau suốt năm học đó… Trong hành trang mang theo cho chuyến vượt biển của mình, Hồng đã mang theo quyển Nhật Kí mà trang đầu tiên đã ghi: “Nếu ai nhặt được quyển sổ này xin hãy mang đến cho bạn tôi: Nguyễn Thị Như Hà, địa chỉ…”. Hà nói: người mang quyển nhật kí đã tìm đến nhà của Hà ở quận 11 để trao và kể lại: “một chiếc tàu vượt biên bị bắn ở Mỹ Tho, nhiều người chết… trong số những thứ người ta vớt được có quyển sổ này…” Tôi nhớ sau đó tôi vào nhà kể cho ba má tôi nghe, xong tôi lên gác ngồi khóc… Tôi thực sự không nhớ rõ ràng cảm xúc của mình khi đó, qua những dòng nhật kí còn lưu giữ, tôi chỉ biết rằng “Lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy thế nào khi một người bạn không còn có mặt trên trái đất này…” Như Hà, tôi và một vài người bạn nữa đã đến để chia sẻ với mẹ Cẩm Hồng… Ngày 3 tháng 6, chúng tôi cũng đã cùng nhau về Mỹ Tho để mong được dự đám ma bạn bởi người nhà báo tin hôm đó sẽ vớt được xác… Chúng tôi đã ngồi đợi ở một ngôi chùa đến tận chiều tối, vẫn không thấy tăm hơi… Hai ngày sau, nghe mẹ Hồng nhắn đã tìm thấy xác anh trai của Hồng, còn Hồng thì vẫn trôi mãi nơi đâu… Nhiều đêm sau đó, Như Hà vẫn cứ hay nằm mơ thấy Hồng “quay về”: “Hà ơi, Hồng lạnh lắm!…” Hà kể, và chúng tôi lại ngồi khóc với nhau. Những giọt nước mắt trong trẻo của tuổi 15, 16 đã bắt đầu gợn lên câu hỏi “tại sao bạn mình phải ra đi để phải chết thê thảm như vậy?”
Quay về câu chuyện của An Nguyễn. An kể về cái đêm ngồi chờ xuống tàu trên một cái ‘gì đó’ của những người đánh cá: “Tôi ngồi trên đó, tự giữ thăng bằng trên những chiếc cọc gỗ, giống như người ta làm xiếc vậy, nếu không tôi sẽ chết. Dĩ nhiên là tôi RẤT sợ. Tôi ngồi một mình nơi đó lúc giữa đêm khuya. Tôi nhớ là tôi RẤT sợ, tôi nghĩ đến chuyện nếu tôi té xuống, tôi sẽ chết. Ðến tận bây giờ, mỗi lần nhớ lại cảm giác lúc đó, tôi vẫn còn nghe ‘lạnh xương sống’… Tôi không cảm thấy cô đơn, mà chỉ thấy sợ hãi, sợ bị bắt, nhưng hơn hết vẫn là sợ rơi xuống và chết. Tôi cố gắng giữ chặt lấy những cây cọc chung quanh, để giữ thăng bằng cho mình… Tôi đang cố gắng giữ lấy cuộc sống thân thương này…”
Tôi đọc không biết bao nhiêu lần đoạn kể trên, mà mỗi lần đọc là mỗi lần day dứt: những người vượt biển không phải là những người không biết sợ. Nhưng có cái gì còn đáng sợ hơn nữa để họ phải bất chấp nỗi sợ như An? Hay có thể sẽ phải chịu những cái chết tức tưởi như bạn tôi khi chưa bước qua được tuổi 16? Người ta chỉ sợ chết khi người ta còn tha thiết lắm với cuộc sống này. Và đã sống thì phải sống sao cho đáng một kiếp người, được đối xử như một con người.
Nói về lí do vì sao phải ra đi, An chỉ nói một cách ngắn gọn: “Gia đình tôi cũng như nhiều người khi đó. Càng ngày càng không thể sống được ở Việt Nam, vì thế chúng tôi phải ra đi.”
Câu trả lời nhẹ tênh cùng lí do tưởng chừng quá đơn giản nhưng sao cứ như xoáy vào đầu tôi một câu hỏi: Còn gì đau đớn hơn khi người ta không thể tồn tại được ngay trên mảnh đất quê hương mình, phải rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn bằng những cuộc vượt biên, trốn chạy để rồi phải mang trên mình tên gọi là “kẻ phản quốc”?
Tôi đã dừng lại thật lâu ở đoạn An nói về tình cảm của mình đối với mảnh đất quê hương: “Những người Việt Nam vượt biên không phải là những kẻ phản quốc. Họ yêu tha thiết quê hương mình, và tình yêu đó càng mạnh mẽ hơn nhiều sau khi họ vượt biển ra đi. Họ ra đi chỉ vì họ không thể sống thêm được ở đó. Bạn có thể hỏi bất kỳ thuyền nhân nào để biết rằng những năm đầu sau khi vượt biên, ai cũng nhớ nhà kinh khủng, họ luôn nằm mơ, giấc mơ đúng nghĩa hằng đêm: mơ được trở về nhà. Ðó là sự hòa quyện đan xen của những cảm xúc ngổn ngang trái ngược: vui mừng biết bao khi thoát khỏi quê hương và khao khát vô cùng sự trở về…”
Sẽ không thể nào hiểu hết được tâm trạng đó của An cũng như những người vượt biển khác khi không biết rằng ở vào thời điểm ấy ra đi là không có hy vọng ngày trở về, hay nói đúng hơn ngày được quay về hãy còn là cái gì mờ mịt lắm! Cũng là một quy luật của muôn đời: cái gì không ở trong tầm tay thì lại càng khiến cho người ta cháy bỏng hơn những nỗi khát khao. Hiểu được như vậy thì mới hiểu hết nỗi ‘nhớ nhà kinh khủng’ mà An nhắc đến nó khắc khoải và da diết đến mức nào! Có làm người xa xứ tha hương thì mới cảm thông hết được nỗi niềm lưu luyến mảnh đất cha ông. Ði đâu, ở đâu, làm gì rồi thì linh hồn của mỗi người cũng đều có một hướng để vọng về: nơi chôn nhau cắt rốn. Không thể chối bỏ, không thể khước từ bởi đó là nơi giữ lấy phần hồn, giữ lấy tâm linh cội nguồn.
Tôi nhớ vào những ngày tháng đó, anh trai tôi, cũng bằng tuổi An, cũng là một thuyền nhân. Từ đảo Galang, mỗi lá thư anh gửi về nhà là mỗi lá thư đẫm nước mắt của ba má và các anh chị em tôi. Tôi cứ nhớ hoài khi ấy tôi chỉ mới 8, 9 tuổi, tôi đọc lá thư anh viết: cứ sau những giờ lao động làm thêm để kiếm tiền, anh vẫn thường ghé đến những ‘ngôi trường’ dạy trẻ em tị nạn, nhìn những đứa bé đó và anh cố hình dung ra chúng tôi – những đứa em gái ở nhà – bây giờ đã thay đổi ra sao, rồi anh ao ước giá như anh được quay về chỉ để nói rằng anh thương chúng tôi lắm… Tôi đọc và nước mắt cứ chảy, cứ nghe tim mình thắt lại như ngay lúc này…
Tôi lại chợt nhớ đến tâm sự của một người từng làm báo, sang định cư nơi đây theo diện H.O vào đầu những năm 1990. Anh nói: Người Việt nơi đây – trên đất Mỹ này – mang những nỗi niềm mà các dân tộc khác không hề có. Tôi chưa thực sự hiểu nỗi niềm anh muốn nói đến là gì, nhưng tôi cứ trăn trở với câu nói đó. Và tôi lí giải nó theo cách riêng của mình.
Nỗi niềm đó, phải chăng là nỗi niềm như An vừa kể, nỗi niềm của những kẻ tha hương, không thể sống trên mảnh đất tổ tiên, chọn quê người làm chốn dung thân, nhưng vẫn canh cánh trong lòng ngày trở về. Nỗi niềm ‘giữa hai miền mưa nắng’ như nhà văn Hoàng Mai Ðạt đã viết: “Quê hương tôi không ở bên kia, cũng không phải ở đây, mà ở đâu đó giữa hai nơi. Tôi rời Việt Nam quá sớm để có những kỷ niệm êm đềm với Việt Nam… Tôi không có nhiều gốc rễ ở bên kia, tôi cũng không có gì ở bên đây. Những người rời xa quê hương quá sớm đều không có nơi để trở về.”
Nhưng dẫu biết là như vậy nhưng những người như An, như tác giả Hoàng Mai Ðạt, hay bất cứ một người xa quê nào “vẫn cố gắng hòa nhập vào một quê hương mới mênh mông, với một tay bám theo tương lai xa cội nguồn và một tay nắm giữ những quá khứ chưa muốn dứt lìa. Hai dòng sống vẫn trôi nhanh, cách biệt, bất kể những bất hạnh, bất lực, những đắng cay và tiếng cười đứng bên cuộc đời. Tôi không thể cưỡng lại dòng sống ở bên đây, và tôi cũng không thể trở về dòng đời bên đó.”
…Nắng đã tắt. Màn đêm đã buông. Đưa tay lau vội dòng nước mắt và tôi cũng chợt kịp nhận ra rằng: Trong cái mênh mông bất tận đến vô cùng, sóng vẫn rì rầm bài hát ngàn năm của biển khơi mang theo trong đó những câu chuyện, những linh hồn, những ước nguyện không bao giờ nguôi của những người có cùng tên gọi “Thuyền Nhân”…