Bằng cách nào, tôi đến đây (1)

1.

Có muốn níu kéo đến cuối tuần cũng không xong, phải lật qua entry mới thôi, vì số còm của entry trước đã lên đến gần 500 rồi, còn hơn đại hội còm sĩ nữa. Nhiều quá, thành ra nếu tui có vô tình lướt qua không trả lời cho ai câu hỏi nào đó thì cũng xin đừng chấp nhứt tui, tội nghiệp tui lắm lắm 😛

Với những thân tình kiểu này, có lẽ một lúc nào đó cũng phải nghĩ đến chuyện cho còm sĩ và độc sĩ gặp nhau quá 🙂

Với tui thì chuyện này không lạ, bởi 1 lần về Sài Gòn, tui cũng có gặp bạn blog rồi. Hôm Labor Day vừa rồi, tui cũng có làm một chuyến họp mặt blogger tại Las Vegas. Tui còn nhớ lần đó, có vợ chồng nhỏ em tui cùng tham dự một cách tình cờ. Sau đó, hai vợ chồng nó cứ rỉ tai tui hỏi nhỏ, “Thật tình đây là lần đầu tiên mọi người gặp nhau đó hả?” – Ừ.

Nó không thể nào hình dung được bạn blog thôi mà sao lại cứ như thân thiết tự thuở nào.

Nhưng so với tình hình mà tui đã chứng kiến, thì hình như tình nghĩa còm sĩ ở đây còn nặng nề hơn đó, dù chỉ mới có mấy tháng thôi. Để tính từ đây tới Tết 2020 chắc thế nào cũng có được 1 ngày 🙂

2.

Bước qua tháng 4 cả tuần rồi.

Chị Tứ Hải MT đề nghị mỗi người kể lại câu chuyện mình đã có mặt tại đất nước đệ tam như thế nào, tức là không chỉ có còm sĩ ở Mỹ, mà ở Úc, ở Pháp, Canada,… cũng đều” bị ép” kể hết 😛

Tui nghĩ lời đề nghị đó rất là hay. Sẽ không ai có cùng thời điểm ra đi, cùng 1 cách đi. Có chuyến đi nhẹ nhàng, có chuyến đi bão tố. Có chuyến đi nhìn lại như giấc mơ đẹp, có chuyến đi mãi là cơn ác mộng. Có người đi bằng tàu. Có người đi bằng thuyền. Có người đi đường bộ. Có người ngồi máy bay. Nhưng điểm đến đều là một đất nước tự do.

Sau bao nhiêu năm, giờ có dịp hồi tưởng lại ngày mình ra đi, cũng là một điều hay. Chuyện của mỗi người đều có sức hấp dẫn và quyến rũ riêng theo cách nhìn của mỗi người.Kể 1 chuyện để được nghe nhiều chuyện, để cùng chiêm nghiệm những đắng cay và hạnh phúc…

Đúng lý ra, tui sẽ phải kể chuyện của chính mình trước. Nhưng đây đó trên blog này, tui đã kể rồi, giờ kể lại sẽ chán.

Thôi thì tui mượn lại câu chuyện tui viết về anh trai tui, mở đầu cho loạt phóng sự tui viết nhân dịp cùng các thuyền nhân trở về các trại tị nạn hồi tháng 4 năm 2010, để bắt đầu cho một đề tài hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn và cũng nhiều xúc động này.

***

“Nếu bây giờ có dịp quay về đảo, nơi anh đã sống những ngày chờ nơi định cư, anh có nhận ra nó không?”

“Không biết những ngôi nhà, những ‘barrack’ ngày xưa có còn không. Gần 30 năm rồi, nhưng anh nghĩ là anh sẽ nhận ra. Dầu gì anh cũng đã sống ở đó 18 tháng…”

Dòng hồi ức của anh, một thuyền nhân năm nào, đưa tôi trở về với những cảm xúc, những ký ức đã nằm yên hơn một phần tư thế kỷ.

Ngày 1 tháng 1 năm 1981, sau khi đã khẩn khoản cùng ba má, “Cho con ở nhà ăn Noel với các em xong rồi con đi,” anh, đứa con trai 15 tuổi khi ấy, rời gia đình, rời vòng tay chăm sóc của cha mẹ, giã từ nụ cười trong vắt của những đứa em gái còn rất nhỏ, bước chân làm “kẻ vượt biên,” phó mặc số phận mình cho trời định.

Chuyến đi của anh bắt đầu từ Nhà Bè.

Sau 4 ngày 5 đêm, tàu anh đến một hòn đảo nhỏ, “anh không nhớ tên.” Người dân trên đảo đó hình như cũng chưa quen với việc có người tị nạn. Họ gọi cảnh sát.

Sau khi giữ chiếc tàu của anh lại, cảnh sát chở mọi người sang một hòn đảo khác. Anh ở đó một tháng trước khi được chuyển đến đảo Galang 1, sau đó là Galang 2.

“Khi đặt chân lên đảo, cảm xúc anh như thế nào?” tôi, đứa em gái được 8 tuổi vào ngày anh ra đi, hỏi anh trai mình ký ức của những ngày tháng cũ.

“Lạ lắm. Anh đâu có hình dung ra là lại có đông người tị nạn như vậy.” Anh nhớ lại.

Như một lẽ thông thường, câu đầu tiên ai cũng hỏi khi đặt chân lên đảo là, “Khi nào mình được đi?” Anh cũng vậy, không ngoại lệ.

Người ta trả lời, “Có khi 3 tháng, khi 6 tháng, hoặc có thể một năm hoặc lâu hơn nữa.” Anh đã hy vọng mình sẽ nằm trong số đông, “khoảng 4 đến 6 tháng,” sẽ được đặt chân đến một vùng đất tự do nào đó.

Thế nhưng anh đã sống trong “tâm trạng khó diễn tả” ở đảo đến 18 tháng.

“18 tháng ở đảo vào thời điểm đó so với mọi người là khá lâu. Anh cũng không biết tại sao, cũng có thể vì anh chẳng có ai thân thích ở nước ngoài,” anh hồi tưởng.

“18 tháng sống ở Galang, điều gì khiến anh nhớ nhất?”

“Anh nhớ nhiều lắm,” giọng anh như chùng lại.

“Anh nhớ những lần anh đưa người ta lên tàu đi định cư. Anh gửi cho họ những lá thư nhờ họ gửi về nhà cho ba má.”

“Anh nhớ nhất mỗi lần trại thông báo tên người đi lên phỏng vấn thì dù đang ở bất cứ nơi đâu trên đảo, anh cũng đứng lại, lắng nghe. Có ngày họ đọc 1, 2 lần. Mỗi lần như vậy cứ ráng nghe xem có tên mình không, không có anh lại buồn. Rất buồn.”

Anh dừng lại. Ðâu đó trong tiềm thức, hình ảnh của một đứa bé, chưa kịp làm người lớn, bị bức khỏi người thân, mờ mịt một tương lai, cứ như dậy sóng.

Tôi hình dung. Tôi tưởng tượng. Anh tôi đó và những người như anh tôi đó, đã bồn chồn, đã nín thở để lắng nghe tên mình, để rồi thất vọng, tái tê. Không chỉ một lần, một ngày, một tháng, một năm, mà ròng rã suốt ngần ấy thời gian. Như một trò cân não.

Số phận đâu chỉ thử thách lòng người trong những ngày lênh đênh trên biển. Số phận còn tôi luyện họ, những thuyền nhân, bằng những tiếng gọi loa đó. Hy vọng thật nhiều. Và suy sụp cũng không ít.

“Anh nhớ những người có thân nhân gửi tiền đến thì họ có tiền mua thêm đồ đạc, quần áo. Còn những đứa như anh, mỗi thằng chỉ có 2 cái quần đùi. Hôm nay ra suối tắm, giặt, phơi. Mai thay cái kia, giặt phơi cái này. Mình không có thân nhân, không có tiền, không có đồ. Có vài người quen biết, khi họ được đi định cư, họ cho lại cái quần cái áo để khi mình lên gặp phái đoàn thì mình cũng lành lặn chút xíu.”

Anh lại lặng im một thoáng.

Những điều chừng như nhỏ nhặt đến vậy, nhưng trong cõi riêng của mỗi người, nó lại là một cái gì đó, thật đắng cay và cũng thật dịu dàng.

“Anh còn nhớ gì nữa không?” Tôi khó nhọc phá tan sự im lặng.

Giọng anh miên man, “Trong đầu anh nhớ nhiều lắm.”

“Ở Galang có một cái chùa và một cái nhà thờ. Mỗi lần anh buồn, anh lên chùa. Chùa xa lắm, ở tuốt trên núi lận. Mỗi lần anh buồn, anh lại lên đó, ngồi nghĩ về gia đình để thấy mình thanh thản hơn, rồi cứ khấn vái. Anh lên chùa, rồi thì anh lên nhà thờ luôn. Anh cũng không biết mình lên đó để làm gì. Anh cứ đến cầu nguyện.”

Tôi cắn chặt môi để anh đừng nghe tiếng tôi bật khóc.

Ngoài anh, bao nhiêu người nữa, vẫn giữ trong tâm tư mình hình ảnh một đứa trẻ, lẻ loi, cô độc, cứ cắm đầu chạy lên núi, che giấu những giọt nước mắt, che giấu những nỗi buồn đôi khi đến tuyệt vọng, tìm đến sự chở che của đấng bề trên, không cần là Phật, không cần là Chúa, ai cũng được. Nó chỉ muốn tìm một chút bình an, để tiếp tục hy vọng một ngày mai. Xa xăm. Mờ mịt.

“Chùa tên gì anh không nhớ tên. Nhưng anh nhớ rất rõ nó nằm ở đâu, nhà thờ nằm ở đâu. Ở đó có cái rạp hát để cho những người cảnh sát giải trí. Mỗi lần muốn coi phim anh leo lên nóc nhà nằm coi. Bởi chung quanh nó rào lại hết, ai muốn xem thì phải mua vé, anh không có tiền, thì anh cùng mấy người bạn leo lên đó coi.” Anh bật cười.

Anh hỏi tôi sẽ đến đảo nào trong chuyến đi Ðông Nam Á này. “Sẽ đến Galang, và một số trại khác,” tôi trả lời anh.

“Ừ. Nếu có dịp anh cũng sẽ về trại tị nạn để hồi tưởng lại những kỷ niệm xưa.”

Tôi biết, ở đầu dây bên kia, anh đang đốt thuốc.

Những đắng cay, những tuyệt vọng, những ngày đói khổ đều đã qua. Nhưng trong chất chồng những ký ức, Galang và những ngày vui buồn cùng nó, như vẫn vẹn nguyên một tâm tình trong anh, trong lòng một thuyền nhân.
….

Nhìn tất cả những gì cần thiết phải có cho cuộc hành trình đang nằm gọn trong chiếc vali, tôi thầm nghĩ, “ủa, chỉ có vậy thôi ư?” Tôi chưa bao giờ rời khỏi nơi này với hành lý nhẹ nhàng như vậy.

Quần áo đủ mặc.

Máy chụp hình.

Chiếc laptop

Thêm những thứ, thật đặc biệt, trong hành trang lên đường lần này của tôi.

Ký ức của anh tôi.

Ký ức của bạn tôi.

Và những lời nhắn gửi của độc giả.

Ðể bước chân ra đi chiều nay, thật nhẹ nhàng nhưng cũng lắm mông lung

4/2010